Trình UNESCO vinh danh hát Then là di sản văn hoá nhân loại

(Dân trí) - Văn phòng Chính phủ mới có văn bản về việc gửi Hồ sơ quốc gia “Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam” trình UNESCO xét ghi danh vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Theo đó, Bộ VHTT&DL sẽ gửi hồ sơ “Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam” tới UNESCO trước ngày 31/3, để được dự xét trong năm 2018.

Từ bao đời nay, Then đã trở thành sinh hoạt văn hóa tâm linh của đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Thái ở vùng núi phía Bắc Việt Nam. Theo các nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian, loại hình nghệ thuật hát Then chỉ có ở 5 tỉnh là Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang.

Từ bao đời nay, Then đã trở thành sinh hoạt văn hóa tâm linh của đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Thái ở vùng núi phía Bắc Việt Nam. Ảnh: TL.
Từ bao đời nay, Then đã trở thành sinh hoạt văn hóa tâm linh của đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Thái ở vùng núi phía Bắc Việt Nam. Ảnh: TL.

Then là một loại hình nghệ thuật tổng hợp chứa nhiều thành tố ngữ văn, âm nhạc, mỹ thuật, múa, diễn xướng dân gian và có giá trị về lịch sử, văn hóa, xã hội. Đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Thái thường sử dụng hát Then vào những dịp trọng đại như hội làng, cầu đảo của từng gia đình, dòng họ vào dịp năm mới...

Theo các nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian, hát Then xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI vào thời nhà Mạc chạy lên Cao Bằng và xây dựng thành quách ở đó.

Theo truyền thuyết, trong số quan lại của nhà Mạc có hai vị tên là Đế Phụng và Đế Đáng rất yêu âm nhạc và thích ca hát, họ đã chế tạo ra tính tẩu và lập ra hai tốp hát để phục vụ cung đình. Về sau dân chúng thấy hay nên bắt chước và được lưu truyền trong dân gian. Theo thời gian, hát Then - đàn tính được lan rộng ra các tỉnh miền núi phía Bắc và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Thái.

PGS.TS Nguyễn Bình Định - Viện trưởng Viện Âm nhạc, đơn vị đảm nhiệm lập hồ sơ di sản cho biết, trong việc xây dựng hồ sơ, UNESCO yêu cầu phía tham gia phải là người dân, cộng đồng. Vì thế, trong hồ sơ di sản Then có nhiều tỉnh tham gia thì điều cần thiết là tính liên kết cộng đồng. Nhưng từ trước đến nay, chưa có loại hình nghệ thuật nào của bà con các dân tộc vùng núi phía Bắc được công nhận danh hiệu di sản của UNESCO nên quá trình xây dựng gặp rất nhiều khó khăn.

Theo PGS Nguyễn Bình Định, với kinh nghiệm trước đây từng làm hồ sơ cho Ca trù, Đờn ca tài tử, Hát bài chòi… thì việc xây dựng hồ sơ cho Then có những thuận lợi là các thầy Then ở địa phương vẫn còn nhiều, các nghi lễ tín ngưỡng vẫn còn được thực hiện và một phần không kém quan trọng là hiện vật, sách Then bằng tiếng Tày - Hán vẫn còn được gìn giữ nhiều trong những gia đình có truyền thống làm thầy Then. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, nghi lễ Then không được thực hiện vì lý do mê tín đã rơi vào tình trạng trầm lắng, phải phục dựng lại.

Do vậy việc làm hồ sơ cho Then cũng gặp phải không ít khó khăn. Then tồn tại và phát triển ở địa bàn các tỉnh vùng núi phía Bắc, cho nên việc đi lại của các chuyên gia cũng không dễ dàng.

Trong hành trình hoàn thiện Hồ sơ cho “Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam” việc dịch lời các bài Then cũng là một trở ngại lớn. Đơn cử như người biết tiếng Tày cũng chưa chắc dịch được các bài hát hát Then. Bởi nhiều bài là tiếng cổ, cộng với phải hiểu biết, có kiến thức về tín ngưỡng, tâm linh, dân tộc thì mới dịch được.

“Vì thế, khi làm hồ sơ, chúng tôi đã yêu cầu mỗi tỉnh phải cung cấp một chuyên gia hiểu biết về Then dịch lời rồi mới chọn lọc đưa vào hồ sơ. Chúng tôi từng làm một lễ cấp sắc ở Bắc Cạn, phải dịch lời mất hai tháng mới xong”, PGS.TS Nguyễn Bình Định cho hay.

GS.TSKH Tô Ngọc Thanh nhận định: “Then là một không gian văn hóa dân tộc, một tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian đa dạng, vừa phản ánh, miêu tả, vừa gửi gắm, nhắn nhủ những ngọt bùi, đắng cay của cuộc sống ông cha”.

Theo GS Tô Ngọc Thanh, nếu gạt bỏ những yếu tố mê tín đối với việc chữa bệnh thì Then là một không gian văn hóa dân tộc, một tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian đa dạng. Ảnh: TL.
Theo GS Tô Ngọc Thanh, nếu gạt bỏ những yếu tố mê tín đối với việc chữa bệnh thì Then là một không gian văn hóa dân tộc, một tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian đa dạng. Ảnh: TL.

Theo GS Tô Ngọc Thanh, trong việc nhìn nhận giá trị của thực hành Then cần có sự phân biệt rạch ròi giữa Then cổ và Then mới, giữa Then nghi lễ và Then văn nghệ, nhất là không thể dựa vào Then mới, Then văn nghệ với các lời đã được cải biên để bảo tồn Then cổ, Then nghi lễ.

“Nếu gạt bỏ những yếu tố mê tín đối với việc chữa bệnh mà ngày nay thực tế cũng không còn mấy ai tin thì Then là một không gian văn hóa dân tộc, một tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian đa dạng, vừa phản ánh, vừa mô tả, vừa gửi gắm nhắn nhủ những đắng cay của cuộc sống của ông cha. Có thể tìm thấy trong Then không chỉ các thể thơ dân tộc, mà còn cả những biện pháp tu từ, ẩn dụ của nghệ thuật ngôn từ; những làn điệu của tầng dân ca, dân nhạc cổ xưa nhất, những điệu múa đã song hành với Then không biết bao nhiêu năm tháng”, GS Tô Ngọc Thanh nhấn mạnh.

Không những vậy, trong nhiều năm trở lại đây việc cải biên, phát triển các làn điệu Then rất được các nhạc sĩ người dân tộc thiểu số hết sức quan tâm. Những sáng tác đưa Then từ không gian nghi lễ đến không gian sân khấu, đem lại nhiều hứng thú cho không ít khán, thính giả.

Cùng với giá trị trong dân gian, kết hợp các Liên hoan nghệ thuật hát Then - đàn Tính các dân tộc Tày, Nùng, Thái được tổ chức thường xuyên, nhằm nỗ lực thực hành Then trong cộng đồng, di sản Then của Việt Nam đang có nhiều cơ hội để trở thành di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Hà Tùng Long