SlideShare a Scribd company logo
1 of 220
Download to read offline
Bác Hồ với thơ Đƣờng luật
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU BẢO TỒN
VÀ PHÁT HUY VĂN HOÁ DÂN TỘC VIỆT NAM
HỘI THƠ ĐƢỜNG LUẬT VIỆT NAM
KỶ YẾU
HỘI THẢO KHOA HỌC
BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT
NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN
HÀ NỘI - 2016
LỜI THƯA
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Văn hoá cũng là
một mặt trận”. Chính vì vậy trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng của mình Ngƣời đã sử dụng khá nhiều
bài viết bằng các thể loại thơ để hƣớng dẫn, chỉ bảo và
động viên mọi tầng lớp nhân dân cùng đoàn kết đấu
tranh trong công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng
đất nƣớc, trong đó có nhiều bài đƣợc viết bằng thể thơ
Đƣờng luật.
Nhân kỷ niệm 125 năm ngày sinh của Ngƣời;
Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và Phát huy Văn hoá
dân tộc Việt Nam, phối hợp với Bảo tàng Hồ Chí
Minh và Hội thơ Đƣờng luật Việt Nam tổ chức thành
công Hội thảo khoa học “Bác Hồ với thơ Đƣờng luật
Việt Nam”.
Với trên 50 bản tham luận công phu và nghiêm túc,
các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà thơ đã cùng
nhau tìm hiểu mối quan hệ giữa Bác Hồ với thơ Đƣờng
luật. Không chỉ nhằm tôn vinh tài thơ lớn, tƣ tƣởng
tình cảm cao đẹp của Bác Hồ mà qua đó còn thấy đƣợc
cách mà Ngƣời đã Việt Nam hoá thành công một di sản
6 | Lời thƣa
văn hoá nổi tiếng của nhân loại thành di sản văn hoá
mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam; một thứ
vũ khí phục vụ đắc lực cho sự nghiệp giữ nƣớc và
dựng nƣớc của nhân dân ta.
Trong một hội nghị khoa học có thể có những ý
kiến khác nhau hay những luận điểm trùng nhau. Tuy
vậy, Ban tuyển chọn đã tiếp nhận đƣợc rất nhiều thông
tin thú vị, rất có ý nghĩa về cuộc đời cũng nhƣ thơ Bác;
Là tài sản quý giá cho mọi tầng lớp nhân dân nói chung
và cho những ngƣời yêu thơ Đƣờng luật nói riêng có
điều kiện chiêm nghiệm, suy ngẫm và học tập.
Vì điều kiện khuân khổ cuốn sách có hạn, Ban
tuyển chọn xin phép chỉ giới thiệu một số bài viết
làm ví dụ, có lẽ còn phải tiếp tục nghiên cứu và trao
đổi thêm.
Để có đƣợc những tài liệu quý giá mang tính học
thuật và giàu chất nhân văn trong công cuộc Nghiên
cứu bảo tồn và Phát huy văn hoá dân tộc. Hội thơ
Đƣờng luật Việt Nam sẽ tiếp tục tổ chức các cuộc Hội
thảo khoa học về các danh nhân văn hoá dân tộc sẽ trân
trọng kính mời các nhà nghiên cứu, các vị học giả cùng
tham gia.
Trân trọng.
BAN TUYỂN CHỌN
Đề dẫn:
HỘI THÂO BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT
GS Hoàng Chƣơng
Tổng giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn & Phát huy Văn hóaDân tộc Việt Nam
Trong tác phẩm Văn hóa và đổi mới, cố Thủ tƣớng Phạm Văn
Đồng từng nhận xét: Một trong những tính trội của văn hóa Việt
Nam là khả năng tiếp nhận những cái hay, cái đẹp của các nền văn
hóa khác, không kể đến bất cứ từ đâu, để làm giàu cho mình. Thơ
Đƣờng luật Việt Nam là một bằng chứng hùng hồn cho nhận xét
minh triết đó.
Từ một thể thơ cổ của dân tộc láng giềng Trung Hoa, qua quá
trình tiếp biến văn hóa, dân ta đã biến Thơ Đƣờng luật trở thành một
công cụ hữu hiệu phản ánh trí tuệ Việt Nam, tâm hồn Việt Nam, một
thứ vũ khí sắc bén chống lại dã tâm xâm lƣợc cũng nhƣ đồng hóa của
những kẻ bá quyền trong cái dân tộc đã sản sinh ra nó. Và một trong
những con ngƣời Việt Nam tiêu biểu nhất góp phần biến Thơ Đƣờng
luật thành một thể thơ truyền thống Việt Nam là Bác Hồ vĩ đại của
chúng ta.
Hôm nay chúng ta hội tụ về Bảo tàng Hồ Chí Minh lịch sử thực
hiện Hội thảo mang tên “Bác Hồ với thơ Đƣờng luật Việt Nam” do
Trung tâm nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam
phối hợp với Bảo tàng Hồ Chí Minh và Hội thơ Đƣờng luật Việt Nam
tổ chức. Thay mặt Ban tổ chức, tôi nhiệt liệt chào mừng các vị đại
biểu, chào mừng các nhà khoa học, nhà thơ, hội viên Hội thơ Đƣờng
8 | GS Hoàng Chƣơng
luật Việt Nam đã gửi đến Hội thảo hơn 50 bản tham luận công phu,
nghiêm túc.
Mặc dù đã có hàng trăm bài viết về tập thơ “Nhật ký trong tù” và
nhiều bài thơ viết bằng thơ Đƣờng luật theo thể thơ tiêu biểu là thất
ngôn bát cú hay thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú, ngũ ngôn tứ tuyệt
của Bác Hồ trên nhiều quyển sách, tờ báo trong nhiều thập kỷ qua,
nhƣng dƣờng nhƣ chƣa có một Hội thảo khoa học chuyên đề về nội
dung: “Bác Hồ với thơ Đƣờng luật”. Đây cúng là một trong những
hoạt động thiết thực kỷ niệm 125 ngày sinh của Hồ Chủ Tịch, đồng
thời nhằm thiết thực hƣởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo
tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh. Tìm hiểu mối quan hệ giữa Bác Hồ
với thơ Đƣờng luật, không chỉ nhằm tôn vinh tài thơ lớn, tƣ tƣởng tình
cảm cao đẹp của Bác Hồ mà qua đó chúng ta còn tìm hiểu đƣợc cách
mà Ngƣời Việt Nam hóa thành công một di sản nổi tiếng của dân tộc
Trung Hoa, biến nó thành một di sản văn hóa đậm bản sắc văn hóa
Việt Nam, một thứ vũ khí phục vụ đắc lực cho sự nghiệp giữ nƣớc và
dựng nƣớc Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử.
Nói đến đề tài “Bác Hồ với thơ Đƣờng luật”, trƣớc hết là chúng ta
nghĩ ngay đến tập thơ “Nhật ký trong tù”. Đây là tập thơ nổi tiếng của
Bác với 133 bài thơ Đƣờng luật viết hoàn toàn bằng chữ Hán đƣợc
chính ngƣời Trung Quốc đánh giá đã đạt đến tầm cao và chiều sâu của
một thứ thơ Đƣờng luật chính hiệu. Bởi thế “Nhật ký trong tù” không
những đƣợc ngƣời Việt Nam, ngƣời Trung Quốc ƣa thích mà độc giả
nhiều nƣớc khác trên thế giới cũng ƣa thích.
Theo tôi đƣợc biết đã có gần 10 nƣớc dịch và phát hành tập thơ
“Nhật ký trong tù” của Hồ Chủ Tịch. Tôi có may mắn đƣợc trực tiếp
tham gia tổ chức và chủ trì Hội thảo Nhật ký trong tù tại Rumani vào
giữa tháng 8 năm 2005. Dịch giả tập thơ này ra tiếng Rumani là nhà
văn Constantin Lupeanu đã từng là Đại sứ tại Việt Nam và Phó đại sứ
tại Trung Quốc, ông đã dịch trực tiếp tập thơ của Bác Hồ từ nguyên
bản chữ Hán ra chữ Rumani. Một điều rất đỗi ngạc nhiên là các nhà
văn Rumani đã cảm nhận đƣợc hình thức thơ Đƣờng và nội dung sâu
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 9
sắc trong tập Nhật ký trong tù của Hồ Chủ Tịch. Có lẽ những ngƣời
Châu Âu khác và những ngƣời Châu Mỹ la tinh cũng tiếp nhận Nhật
ký trong tù của Bác Hồ nhƣ vậy. Chủ tịch Hội nhà văn Rumani nói:
Hồ Chí Minh nhƣ hoa sen từ bùn đất vƣơn lên.
Xin trích đọc hai bài ngắn trong Nhật ký trong tù đã dịch sang
tiếng Rumani:
Bài Nghe tiếng giã gạo
Sunetul Decorticaru/0rezului
Cindedecorticat, orezul
Dar/dupa acea/bobul e ca bumbacul de/alb
Asa e si omul in lumea asta mare
Necazul il pefae jad de valoare
Dịch: Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông
Sống ở trên đời ngƣời cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công
Bài: Nửa đêm:
Ngủ thì ai cũng nhƣ lƣơng thiện
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền
Hiền dữ đâu phải là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên
Dịch: Miez de noapte
Sunt toti bawrrbati curati Sibuni in somn
Cint se trezessc, se-mpart in răi si buni
Ei nu prin nastere sunt răi si buni
Totul, tine de educatia pentru om
Không những tại Rumani, tại Liên Xô và các nƣớc Đông Âu cũ
cũng nhƣ tại Tây Âu, Châu phi, Cu Ba và Châu mỹ la tinh, tập Nhật
ký trong tù cũng đƣợc nhiều ngƣời ƣa thích. Dù đƣợc viết bằng chữ
10 | GS Hoàng Chƣơng
Hán, trong hình thức một thể thơ vốn của dân tộc Trung Hoa, nhƣng
không ai nghĩ nó là sản phẩm của văn hóa Trung Hoa, mà là sản
phẩm đặc sắc của văn hóa Việt Nam, của một trong những con ngƣời
Việt Nam tiêu biểu nhất, một trong những nhân cách Việt Nam đẹp
và hấp dẫn nhất.
Đó là tập Nhật ký trong tù với bạn đọc thế giới, còn đối với ngƣời
Việt Nam chúng ta, Nhật ký trong tù là một trong những tác phẩm văn
học đƣợc quan tâm nhiều nhất, đƣợc tìm đọc rộng rãi nhất, mặc dù
phần lớn ngƣời đọc phải thƣởng thức tác phẩm qua các bản dịch.
“Nhật ký trong tù” còn đƣợc nhà soạn chèo Trần Đình Ngôn
chuyển lên sân khấu chèo với tên gọi “Những vần thơ thép” và Nhà
hát chèo Việt Nam đã diễn rất thành công. Vở chèo đã đƣợc nhiều vị
lãnh đạo của Đảng, Nhà nƣớc và nhân ta rất yêu thích.
Rõ ràng “Nhật ký trong tù” đã trở thành một hiện tƣợng văn học
thú vị, thậm chí bí ẩn, khó giải thích nổi vì sao khi một lãnh tụ cách
mạng Việt Nam nhƣ Hồ Chủ Tịch lại rất thành công trong thể thơ
Đƣờng luật, một thể loại văn học bác học có niêm luật rất chặt chẽ, rất
khắt khe và ngôn từ cực kỳ chau chuốt của ngƣời Trung Hoa. nhà thơ,
nhà soạn kịch Quách Mạt Nhƣợc, một nhà văn hóa lớn của Trung
Quốc cho rằng tập thơ “Nhật ký trong tù” là một đỉnh cao của Đƣờng
thi hiện đại, trong đó có một số bài thơ rất hay, nếu nhƣ đặt lẫn vào
trong tập thơ của những thi nhân cự phách đời Đƣờng, đời Tống thì
cũng khó phân biệt đƣợc.
Để giải thích điều này, chúng ta cần nhìn lại về quá khứ để thấy
đƣợc nền tảng văn hóa tinh thần của Bác Hồ. Khi còn là cậu bé
Nguyễn Sinh Cung, Bác đã đƣợc cha là nhà Hán học Nguyễn Sinh Sắc
trau dồi cho nhiều kiến thức về văn hóa Trung Hoa và Đƣờng thi cùng
với kiến thức và tình yêu văn hóa Việt Nam và thi ca Việt Nam.
Bác lại đƣợc nhà thơ lớn, nhà soạn tuồng lớn của dân tộc là Đào
Tấn yêu mến và dìu dắt. Vốn Hán học và vốn văn hóa dân tộc hòa
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 11
nhuyễn trong tâm hồn Bác Hồ từ thời thơ ấu và tuổi thanh niên là nền
tảng văn hóa, là hành trang văn hóa trên con đƣờng Cách mạng của
Bác, giúp Bác dù có tiếp xúc, có chịu ảnh hƣởng văn hóa Âu, Mỹ,
nhƣng văn hóa dân tộc, trong đó có vốn Đƣờng thi vẫn hiện hữu và đã
tỏa sáng trong thơ ca của Bác.
Cũng nhƣ Nguyễn Du, Đào Tấn… đã Việt Nam hóa hoàn toàn
văn học cổ của Trung Hoa, thơ Đƣờng luật của Hồ Chủ Tịch đƣợc thể
hiện theo nhịp điệu và màu sắc Việt Nam, mang tƣ tƣởng, tâm hồn
Việt Nam, dù là các bài thơ nổi tiếng trong “Nhật ký trong tù” hay các
bài thơ đƣợc làm sau này, tiêu biểu nhƣ bài thơ tứ tuyệt Nguyên tiêu
viết bằng chữ Hán đã đƣợc dùng làm đề từ cho đêm thơ Nguyên tiêu
độc đáo trên toàn cõi Việt Nam thống nhất:
Kim dạ Nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
Hoặc bài ngũ ngôn tứ tuyệt nhƣ lời ứng khẩu bằng tiếng Việt, kêu
gọi thế hệ trẻ vững chí bền lòng trong lao động sáng tạo vì đất nƣớc:
Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và nấp biển
Quyết chí cũng làm nên
Hồ Chủ Tịch đúng là nhà thơ lỗi lạc trong lĩnh vực Đƣờng thi ở
Việt Nam đƣợc cả thế giới biết đến và tôn vinh. Mới đây nhất, tháng
10 năm 2015, nƣớc Anbani lại công bố bản dịch tập “Nhật ký trong
tù” và có lẽ tập thơ này sẽ còn tiếp tục đƣợc dịch ở những nƣớc khác.
Trên đây chúng tôi điểm vài nét sơ lƣợc về thơ Đƣờng luật của
Bác Hồ, coi nhƣ gợi mở để các nhà nghiên cứu tiếp tục bàn sâu hơn:
12 | GS Hoàng Chƣơng
chúng ta sẽ đi sâu phân tích việc Bác Hồ học tập, tiếp thu thơ Đƣờng
luật, sử dụng nó nhƣ một thứ vũ khí trong hoạt động Cách mạng của
ngƣời, kết nối nó với tâm hồn Việt Nam, văn hóa Việt Nam, để biến
nó trở hành một thứ di sản đậm bản sắc Việt Nam.
Chúng ta hoàn toàn có thể tự hào nói rằng, với Bác, thơ Đƣờng
luật đã Việt hóa thành công, đã trở thành một di sản văn hóa của dân
tộc Việt Nam.
Ban tổ chức Hội thảo rất vui mừng khi thấy nhiều tham luận rất
hay, rất sâu sắc của quý vị đã in trong tập tƣ liệu Hội thảo.
Xin cảm ơn quý vị đã nhiệt tình tham gia Hội thảo. Chúc Hội
thảo thành công.
Hà Nội, 23/10/2015
THƠ ĐƯỜNG LUẬT CÛA HỒ CHÍ MINH
TRONG “NHẬT KÝ TRONG TÙ”
GS – AHLĐ - Vũ Khiêu
Tôi hoan nghênh sáng kiến của Giáo sƣ Hoàng Chƣơng qua việc
tổ chức cuộc Hội thảo về Bác Hồ với thơ Đƣờng luật. Trong thời
gian ở trong nƣớc, Bác Hồ đã làm nhiều bài thơ giản dị để chúc nhân
dân ta trong dịp Tết Nguyên đán và nhiều câu thơ, bài thơ động viên
nhân dân ta lao động và chiến đấu. Những bài thơ đó ít nói về bản
thân Bác. Muốn hiểu đƣợc những cảm xúc sâu sắc và những suy tƣ
thầm lặng của Bác thì phải tìm tới những bài thơ mà Bác đã ghi lại
nhƣ những mẩu nhật ký của bản thân mình. Chúng ta đã không đƣợc
thấy rõ, nếu nhƣ các đồng chí lãnh đạo ở bên cạnh Ngƣời không tha
thiết yêu cầu Bác cho phổ biến tập Nhật ký trong tù.
Trong cuộc Hội thảo hôm nay, tôi xin phép đƣợc phát biểu đôi
điều cảm nghĩ của bản thân tôi sau khi đọc những bài thơ Đƣờng luật
của Bác.
Bác khiêm tốn chỉ cho mình là ngƣời ghi nhật ký chứ chẳng phải
làm thơ nhƣng nhật ký ấy lại viết theo một thể loại khó nhất là thơ
Đƣờng. Theo Quách Mạt Nhƣợc, nhiều bài trong đó có thể xếp ngang
những bài thơ Đƣờng hay nhất.
Thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh đƣợc dịch ra tiếng Việt. Các bản
dịch dù chƣa thể hay bằng nguyên tác, nhƣng đã ngọt ngào nhƣ tiếng
hát dân gian, thanh cao nhƣ cốt cách dân tộc.
14 | GS – AHLĐ – Vũ Khiêu
Thành công ấy là sản phẩm của bao công phu bền bỉ trong nhận
thức cuộc sống và trau dồi nghệ thuật. Nó bắt nguồn từ những bài
giặm Nghệ Tĩnh, những bài hát dân ca hay nhất, đã sớm cùng với lời
ru và sữa mẹ rót vào tâm hồn ấu thơ của Hồ Chí Minh.
Không phải Hồ Chí Minh ở trong tù mới biết đến thơ Đƣờng qua
tập Thiên gia thi. Ngay từ những ngày còn nhỏ, sống bên cha, Ngƣời
đã nghe cha và bè bạn của cha hàng ngày đọc thơ và làm thơ. Ngƣời
đã thuộc lòng không ít những bài thơ của Trung Quốc và Việt Nam.
Không chỉ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Thức mà còn Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm… đã để lại trong tâm hồn
Ngƣời những cảm hứng thi ca đẹp nhất.
Từ ngày ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc (1911), Hồ Chí Minh đi vào
thế giới bao la của văn học thế giới, nhất là văn học phƣơng Tây. Qua
đó, Ngƣời tiếp thu đƣợc sự uyên bác về kiến thức, sự trong sáng trong
hành văn, sự tinh tế trong thể hiện. Không có quá trình công phu tích
lũy và rèn luyện ấy, thì không dễ dàng có đƣợc một tập thơ cao cả về
tƣ tƣởng và trau chuốt về nghệ thuật nhƣ Nhật ký trong tù.
1. Xiềng xích và tự do
Nhà tù đã đặt Hồ Chí Minh trƣớc một hoàn cảnh chiến đấu mới.
Một trận cuồng phong đã “cản ngƣợc cánh chim bằng” và con ngƣời
tự do đã sa vào xiềng xích.
Trong cái nhà tù man rợ này, mọi xiềng xích đã đƣa ra để trói
buộc một con ngƣời, nhất đây lại là con ngƣời đã suốt đời lấy tự do
làm lẽ sống, suốt đời chiến đấu nhằm đập tan mọi xiềng xích cho cả
nhân loại và cho mỗi con ngƣời.
Sự vật lộn giữa tự do và xiềng xích lại diễn ra trong một hoàn
cảnh đầy những điều ngang trái và từ đó nó đã tạo nên những nét
tƣơng phản tô đậm thêm sự cao cả của tự do và sự tàn bạo của xiềng
xích. Hồ Chí Minh - con ngƣời đã thống nhất ở bản thân những tinh
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 15
hoa của cả nhà thơ và nhà cách mạng - đến nay lại tự phân đôi thành
thân thể và tinh thần.
Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao …
Thân thể này, chúng có thể hành hạ nhƣng tinh thần này thì không
gì khuất phục nổi:
Nghĩ mình trong lúc gian truân,
Tai ƣơng rèn luyện tinh thần thêm hăng.
Với tinh thần ấy, Hồ Chí Minh biến tai ƣơng thành môi trƣờng
rèn luyện. Cƣờng bạo của nhà tù càng nén xuống thì khí phách của
anh hùng càng vùng lên. Xiềng xích càng muốn trói buộc con ngƣời
và dập tắt mọi thi hứng thì tinh anh của con ngƣời tự do càng phát
tiết ra ngoài và kết lại trong thơ.
Nhật ký trong tù đã phản ánh sâu sắc và sinh động những sự kiện
từ ngày Hồ Chí Minh bị bắt ở Túc Vinh và trải qua 14 tháng giam
cầm, qua gần 30 nhà tù của 13 huyện.
Trong tù thì ngày mang gông, đêm cùm chân. Giải đi thì tay bị
trói, cổ mang vòng xích, dầm mƣa, dãi nắng, trèo núi qua truông…
Sống trong tù thì thiếu ăn, thiếu ngủ, thiếu không khí. Ban đêm thì
“ngồi trên hố xí để chờ sáng”. Buổi sáng thì đi đổ thùng và quét nhà
giam. Đã thế còn bị hành hạ bởi muỗi, bởi rệp, bởi ghẻ lở.
Thơ của Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở việc mô tả những hiện
tƣợng của hoàn cảnh một ngày trong tù bằng nghìn thu ở ngoài xã hội.
Giá trị hiện thực của nó còn ở chỗ mỗi hiện tƣợng nêu lên là một tâm
trạng. Đối với con ngƣời phong phú về tâm hồn và đa dạng về tình
cảm nhƣ Hồ Chí Minh những ngày trong tù là những ngày có oán, có
thƣơng, có đau xót, có uất hận, có u sầu.
Nghĩ đến nhiệm vụ dở dang của mình, lòng chiến sĩ bừng lên
nhƣ lửa cháy:
16 | GS – AHLĐ – Vũ Khiêu
Hoàn cầu lửa bốc rực trời xanh,
Tráng sĩ đua nhau ra mặt trận.
Cái u sầu tiếp theo niềm uất giận, giống nhƣ bóng đen của cây
đa ngoài cửa ngục, cứ đêm ngày trùm lên nhà lao, trùm lên thân
phận con ngƣời:
Bóng đa đè nặng nhà lao,
Đêm sao lặng ngắt, ngày sao tối sầm!
Ƣu sầu và uất giận còn nặng nề hơn nữa trong lúc ốm đau:
Ở tù mắc bệnh càng cay đắng,
Đáng khóc mà ta cứ hát tràn.
Không khóc mà hát. Tiếng hát đó đã biến cái bất hạnh thành niềm
tin. Với sự sáng suốt và chủ động của con ngƣời, cái bi đát (le
tragique) trở thành cái hài hƣớc (le comique). Cái trữ tình trong thơ
chứa đựng thêm một nội dung mỉa mai châm biếm và từ đó lại vang
lên một tiếng cƣời kiêu hãnh và khinh bỉ của một ngƣời đứng trên cao
nhìn xuống.
Không khóc mà hát. Đêm tàn rồi hửng sáng, đông qua rồi xuân
sang, khổ hết thì vui đến… Với tinh thần ấy, tác giả nhìn mọi khổ cực
của mình và mọi hành vi của kẻ địch với một cái nhìn kiên nghị và lạc
quan. Bọn cai ngục dùng dây thừng để trói thì Ngƣời coi nó giống nhƣ
“Tua đai quan võ bằng kim tuyến”. Khi chúng thay dây thừng bằng
xích sắt thì Ngƣời lại thấy “Mỗi bƣớc leng keng tiếng ngọc rung”.
Không khóc mà hát. Tiếng hát đó trở thành những bài thơ hào
hứng và thiết tha hƣớng về Tự do, ngƣời tự do, cảnh tự do, quyền tự
do, bầu trời tự do… mƣời ba lần Ngƣời nhắc đến tự do. Đã là ngƣời tự
do thì “Mặc dù bị trói chân tay” vẫn vui đƣợc với cảnh “Chim ca rộn
núi, hƣơng bay ngát rừng”. Đêm không ngủ đƣợc, mỗi lúc viết xong
một bài thơ cũng chính là lúc nhà thơ “Nhòm qua khe cửa ngắm trời
tự do”.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 17
Mặc dù bị gông cùm trong ngục, nhƣng khi vừa chợp mắt, con
ngƣời tự do đã thấy “Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh” hoặc “Mơ
thấy cƣỡi rồng lên thƣợng giới”.
2. Cá nhân và cộng đồng
Trong “Nhật ký trong tù”, khát vọng lớn nhất là khát vọng tự do,
đau khổ lớn nhất là đau khổ của nhân loại. Ở đây cả đến cái vui sâu xa
và cái buồn thầm lặng cũng man mác tình ngƣời.
Đêm đông lạnh, Ngƣời nhìn những bạn tù “Gối quắp, lƣng còng
ngủ chẳng an”. Có ngƣời đã lấy những trang sách bồi lại thành mảnh
chăn bằng giấy để đắp tạm, còn hơn “không đệm không chăn”.
Hồ Chí Minh viết về những con ngƣời chịu đói mà chết, những
ngƣời đau đớn bởi gông cùm còn khốn khổ về tật bệnh. Có ngƣời đêm
qua còn nằm ngủ bên cạnh mình mà sáng nay đã chết. Có ngƣời khổ
quá đâm nhào xuống xe, chạy trốn lại bị cảnh sát bắt lôi về. Có ngƣời
vợ vì chồng trốn lính đã bị bắt giam. Có em bé vừa nửa tuổi đã khóc
oa oa trong tù. Có ngƣời vợ đến nhà giam thăm chồng mà chẳng nói
đƣợc gì với chồng:
Anh ở trong song sắt,
Em ở ngoài song sắt,
Gần nhau chỉ tấc gang,
Mà biển trời cách vực.
Bỗng nhớ đến câu thơ thời xƣa:
Anh ở đầu sông Tƣơng,
Em ở cuối sông Tƣơng.
Dòng sông Tƣơng thăm thẳm giữa hai đầu gợi lên sự chia ly xót
xa và tình yêu thƣơng bát ngát của một cặp tình nhân. Còn ở đây, giữa
bên trong và bên ngoài song sắt là sự cay đắng nghẹn ngào của hai vợ
chồng cùng nhìn nhau mà chẳng nói nên lời. Hai đoạn thơ nói về hai
cảnh ngộ khác nhau nhƣng lại cùng đẹp nhƣ nhau cả lời lẫn ý.
18 | GS – AHLĐ – Vũ Khiêu
Trong những lần bị giải từ nhà ngục này sang nhà ngục khác, Hồ
Chí Minh chứng kiến nhiều cảnh sinh hoạt của nhân dân và ghi lại
những cảm xúc của mình.
Có buổi chiều “Gió sắc tựa gƣơm mài đá núi - Rét nhƣ dùi nhọn
chích cành cây”, Ngƣời phác ra những nét sinh động của một bức
tranh quê thắm đƣợm nhân tình:
Chùa xa chuông giục ngƣời nhanh bƣớc,
Trẻ dẫn trâu về tiếng sáo bay…
Sống trên đất của nƣớc đang giam cầm mình, Hồ Chí Minh vẫn
đầy lòng thƣơng mến với nhân dân nƣớc ấy và lo lắng cho đời sống
của họ, khi thấy: “đất khô cằn” và “trời đại hạn”.
Có lúc đi thuyền, hai chân bị trói và treo lên nhƣng khi thấy làng
xóm bên sông đông đúc thì lòng Ngƣời lại thấy “nhẹ thênh thênh”
giống nhƣ “chiếc thuyền chài đang lƣớt sóng giữa dòng sông”. Tình
cảm của Ngƣời phản ánh hoàn cảnh khốn khổ của nhân dân lao động
mà Ngƣời đã từng thấy ở quê hƣơng và ở mọi nơi trên thế giới. Tình
cảm ấy ngày một mãnh liệt, thôi thúc. Ngƣời học tập, suy nghĩ và sáng
tạo, hình thành nên những phẩm chất đặc biệt của một nhân cách. Tình
cảm riêng tƣ ấy vẫn gắn với cuộc chiến đấu mãnh liệt nhằm đem lại
độc lập cho các dân tộc, tự do cho mỗi con ngƣời và văn minh cho cả
nhân loại.
Chính vì lẽ trên mà trong thơ Hồ Chí Minh đã nổi bật lên cả tính
độc đáo của cá nhân và tính phổ quát của cộng đồng khiến Ngƣời
xuất hiện nhƣ một hình tƣợng tuyệt vời, hấp dẫn, sự ngƣỡng mộ và
khâm phục của đông đảo độc giả.
3. Thiên nhiên và nghệ thuật
Nói về thơ thiên nhiên, Hồ Chí Minh từng viết:
Thơ xƣa thƣờng chuộng thiên nhiên đẹp,
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông,
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 19
Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
Qua lời thơ này tƣởng nhƣ Ngƣời không làm thơ về thiên nhiên.
Không ngờ thiên nhiên lại tràn ngập trong nhiều bài thơ của Ngƣời.
Chỉ có điều là Ngƣời yêu thiên nhiên, nhƣng không dừng lại mô tả
“cái đẹp” của thiên nhiên tách khỏi đời sống xã hội. Trong thơ của
Ngƣời, nếu nhƣ bông hoa cƣời, con chim hót, nắng xuyên vào ngục,
mây trôi trên tầng không… thì đó không chỉ là đối tƣợng xã hội của
nhà thơ mà còn là những cảnh ngộ, những tâm trạng, những phƣơng
tiện tự thể hiện của con ngƣời.
Những lúc cảnh vắng canh khuya, nhà tù đã quạnh hiu, còn quạnh
hiu hơn nữa. Đó là những lúc tâm hồn hòa nhập với thiên nhiên và
Ngƣời đã viết những bài thơ hay nhất. “Một canh, hai canh lại ba
canh” nằm chẳng ngủ, Ngƣời nhìn ra bên ngoài:
Khóm chuối trăng soi càng thấy lạnh,
Nhòm song Bắc đẩu đã nằm ngang.
Lúc này, Ngƣời càng cảm thấy yêu mến và gần gũi với trăng sao
và trăng sao đã đƣợc nhân hóa để nói chuyện với Ngƣời.
Hồ Chí Minh không chỉ viết một bài về trăng. Trong thiên nhiên
có lẽ trăng là hình tƣợng gắn bó nhất với tâm hồn con ngƣời. Trăng là
ngƣời bạn thanh cao và gần gũi:
Ngƣời ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
Trong nhà tù, đêm trung thu không đƣợc thƣởng trăng, nhà thơ
cảm thấy lòng buồn vời vợi:
Trung thu vành vạnh mảnh gƣơng thu,
Sáng khắp nhân gian bạc một màu…
Chẳng đƣợc tự do mà thƣởng nguyệt,
Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu.
20 | GS – AHLĐ – Vũ Khiêu
Ngay cả khi ra khỏi ngục tù, trong khi chỉ đạo cuộc kháng chiến ở
chiến khu, Ngƣời vẫn yêu trăng và gần gũi với trăng. Trăng đòi sự có
mặt trong thơ của Ngƣời:
Trăng vào cửa sổ đòi thơ,
Việc quân đang bận, xin chờ hôm sau.1
Thơ trăng có thể là loại thơ cao nhất trong thơ thiên nhiên. Nó
lắng đọng và kết tinh những tình cảm đẹp nhất của con ngƣời. Nó là
sự gặp gỡ của những tâm hồn thanh cao trong thế giới huyền diệu và
tinh tế của thiên nhiên và nghệ thuật.
Qua Nhật ký trong tù, chúng ta thấy nổi lên những quan hệ đẹp
nhất giữa con ngƣời với xã hội và con ngƣời với thiên nhiên. Hồ Chí
Minh, con ngƣời gắn bó mật thiết với nhân dân lao động lại là ngƣời
thích sống với thiên nhiên, làm bạn với thiên nhiên. Giữa Thủ đô nhộn
nhịp của Việt Nam, bên cạnh tòa nhà nguy nga của Phủ Chủ tịch,
Ngƣời sống trong một ngôi nhà sàn nhỏ bé, bên cạnh ao cá vƣờn cây,
giữa hoa thơm và bóng mát.
Cứ mỗi dịp kỷ niệm ngày sinh của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt
Nam với muôn vàn kính yêu lại hƣớng về con ngƣời đẹp nhất. Con
ngƣời ấy luôn luôn hạ mình xuống, coi mình là đầy tớ của nhân dân,
nhƣng nhân dân lại nâng Ngƣời lên coi nhƣ vị cha già của dân tộc.
Trong cuộc Hội thảo về thơ Đƣờng luật của Bác Hồ hôm nay,
chúng ta lại cùng nhau thấy rõ thêm những phẩm chất đặc sắc của một
con ngƣời bất diệt. Bất diệt về sự nghiệp anh hùng, bất diệt về tinh
hoa văn hóa và bất diệt về nhân cách cao cả trong sự nghiệp của dân
tộc và nhân loại.
VK
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.544.
BÚT PHÁP CÛA BÁC HỒ
TRONG SÁNG TÁC THƠ ĐƯỜNG LUẬT
TS. Phạm Thị Xuân Châu
Chi hội Thơ Đƣờng luật tỉnh Điện Biên
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác Hồ viết khá
nhiều thơ Đƣờng luật. Nhật ký trong tù: 133 bài. Thơ chữ Hán ngoài
Nhật ký trong tù: 35 bài. Thơ Đƣờng luật quốc ngữ: 35 bài. Nhƣ vậy,
thơ Đƣờng luật của Bác tổng cộng trên 200 bài.Trong đó có 178 bài tứ
tuyệt, 20 bài bát cú, 5 bài trƣờng thiên. Bên cạnh những bài viết theo
đúng tinh thần của thơ cổ, Bác đã dùng Đƣờng luật cải biên thành
nhiều thể loại phong phú để cùng biểu đạt những tƣ tƣởng lớn, những
tình cảm sâu sắc tinh tế.
1. Về Tổ quốc và Nhân dân
Đọc thơ Đƣờng luật của Bác, dù là nhật ký viết trong tù hay
những bài thơ sau này trƣớc và sau cách mạng, trong kháng chiến,
ta luôn thấy hiển hiện lên một tấm lòng yêu nƣớc thiết tha, một ý
chí báo quốc sắt đá, một tấm lòng thủy chung, kiên định, sắt son
hƣớng về Tổ quốc, nhân dân, đồng chí, đồng bào, nhƣ tấm lòng của
Nguyễn Trãi khi xƣa trong Quốc âm thi tập:
Bui một tấm lòng ƣu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nƣớc triều đông.
Bác Hồ của chúng ta cũng vậy, nỗi nƣớc nhà trằn trọc trong
giấc ngủ:
22 | TS. Phạm Thị Xuân Châu
Một canh... hai canh... lại ba canh...
Trằn trọc, băn khoăn, giấc chẳng thành
Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh
(Thụy bất trƣớc - Không ngủ đƣợc)
Ngày nay đọc lại Nhật ký trong tù, chúng ta không khỏi xúc động,
và càng thêm hiểu, thêm thƣơng, thêm cảm phục tấm lòng của Bác đối
với Tổ quốc, nhân dân dẫu Ngƣời đang trong cảnh đọa đày.
Có nỗi đau khổ, đắng cay trong cảnh ốm đau nơi tù ngục, lại
là nơi đất khách quê ngƣời, nhƣng vẫn trăn trở không nguôi niềm
cố quốc:
Ngoại cảm trời Hoa cơn nóng lạnh
Nội thƣơng đất Việt cảnh lầm than/
Trong tù mắc bệnh càng đau khổ
Đáng khóc mà ta cứ hát tràn.
(Bệnh trọng - Ốm nặng)
Có nỗi nhớ nƣớc, thƣơng nhà suốt bao tháng ngày khắc khoải, hóa
thành lệ rơi trên những dòng thơ:
Nghìn dặm bâng khuâng hồn nƣớc cũ
Muôn tơ vƣơng vấn mộng sầu nay
Ở tù năm trọn thân vô tội
Hòa lệ thành thơ tả nỗi này
(Thu dạ - Đêm thu)
Khi Bác mới ra khỏi nhà tù, thân hình tiều tụy “chân yếu mắt
mờ, tóc bạc”, chỉ duy nhất một điều không thay đổi là tấm lòng
chung thủy, sắt son: “Giang tâm nhƣ kính tịnh vô trần”, là nỗi niềm
thiết tha hƣớng về tổ quốc, quê hƣơng, đồng chí, đồng bào:
Bồi hồi độc bộ Tây phong lĩnh
Dao vọng Nam thiên ức cố nhân
(Tân xuất ngục, học đăng sơn - Mới ra tù, tập leo núi)
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 23
Ở những bài thơ này, Bác giữ nguyên đặc điểm cổ kính của thơ
tứ tuyệt luật Đƣờng, ngõ hầu diễn tả trọn vẹn chiều sâu của những
nỗi niềm: cựu sơn hà, hoài cố quốc, ức cố nhân, nhất là trong hoàn
cảnh Năm tròn cố quốc tăm hơi vắng/ Tin tức bên nhà bữa bữa
trông (Tức cảnh).
Chất trữ tình trong thơ có sự quyện hòa của cả chất tình và chất
thép. Màu sắc trữ tình thể hiện qua chính hiện thực tâm trạng của Bác,
cho ngƣời đọc thêm hiểu, thêm thƣơng nỗi niềm của Bác trong mƣời
bốn trăng tê tái gông cùm, từ đó càng thêm cảm phục ý chí kiên
cƣờng của Ngƣời trong gian khổ và tấm lòng thủy chung vô hạn của
Ngƣời với Tổ quốc, nhân dân, nhƣ tấm lòng của Ức Trai xƣa trong bài
Thuật hứng:
Bui có một lòng trung lẫn hiếu
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.
2. Về cách mạng
Thơ Đƣờng luật của Bác giống nhƣ dòng nhật ký hàm súc, trữ
tình, ghi lại suy nghĩ, tâm hồn, lý tƣởng của Bác trên bƣớc đƣờng hoạt
động. Chiến khu Việt Bắc, chiếc nôi cách mạng buổi ban đầu luôn
hiện lên trong thơ Bác, còn in dấu ấn những tháng năm xƣa Bác đã ở
nơi đây nhóm lên ngọn lửa cách mạng sáng đến mai sau:
Non xa xa, nƣớc xa xa
Nào phải thênh thang mới gọi là.
Đây suối Lênin, kia núi Mác
Hai tay xây dựng một sơn hà.
(Pác Bó hùng vĩ)
Câu đầu bài thơ chỉ có sáu tiếng. Bác đã sáng tạo bài tứ tuyệt với
các câu thất ngôn chen lục ngôn. Sự phá cách này khiến lời thơ trở nên
trữ tình, mềm mại, tự nhiên, không còn thấy dấu ấn của thủ pháp miêu
tả, mà dƣờng nhƣ chỉ là Bác đang ghi lại hình ảnh núi rừng Pác Bó
đầy chất thơ đang trải rộng ra trƣớc mắt mình:
24 | TS. Phạm Thị Xuân Châu
Non xa xa, nƣớc xa xa
Sự biến thể của thơ tứ tuyệt cho thấy sự linh hoạt của Bác trong
bút pháp thi ca. Câu thơ đi ra ngoài công thức gợi ra cái nên thơ, trữ
tình của cảnh vật và sự khoáng đạt, bao la, dung dị của hồn ngƣời. Bác
chan hòa, gắn bó với thiên nhiên với tình yêu rộng lớn bao la của
ngƣời chiến sĩ cách mạng, đang bƣớc theo chân lý ngời sáng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, với niềm tin tƣởng sắt son vào tiền đồ ngày mai
tƣơi sáng của dân tộc, để hôm nay luôn một lòng vững vàng, kiên định
sự nghiệp lớn:
Hai tay xây dựng một sơn hà
Bác không chỉ vận dụng thơ Đƣờng luật để nói những tƣ tƣởng
lớn của mình về Tổ quốc và nhân dân, mà thông qua thể thơ này, Bác
còn đặt ra những vấn đề quan trọng của đấu tranh cách mạng.
Bác đã vận dụng tính hàm súc, ngắn gọn của thơ luật Đƣờng để
đúc kết quan điểm cách mạng của mình, nhƣ ở bài thơ chữ Hán Học
dịch kỳ (Học đánh cờ). Bên ngoài là chuyện chơi cờ (Nhàn rỗi đem cờ
học đánh chơi/ Thiên binh, vạn mã đuổi nhau hoài) nhƣng bên trong
lại là vấn đề tƣ duy cách mạng, chiến lƣợc đấu tranh cách mạng: luôn
chủ động, sáng tạo và quyết đoán (Tấn công, thoái thủ nên thần tốc/
Chân lẹ, tài cao ắt thắng ngƣời). Bên ngoài là tƣ duy đánh cờ, nhƣng
bên trong lại là tƣ duy chiến lƣợc, là tƣ tƣởng tiến công cách mạng
một cách khoa học và kiên quyết, giành thế chủ động trong đấu tranh
(Phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ/ Kiên quyết không ngừng thế tiến
công). Ý chí và trí tuệ của một nhà chiến lƣợc cách mạng, với chiến
thuật cách mạng biết thời, biết thế, đón thời, tạo thế đƣợc diễn tả hết
sức rõ ràng, sinh động, dễ hiểu trong nội hàm ẩn dụ của thể thơ tứ
tuyệt luật Đƣờng:
Lỡ nƣớc hai xe đành bỏ phí,
Gặp thời một tốt cũng thành công.
Bài học nắm bắt thời cơ của Cách mạng Tháng Tám là minh
chứng cho chiến thuật cách mạng sắc sảo, đầy trí tuệ của Bác.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 25
Từ việc chơi cờ Bác đặt ra vấn đề tƣơng quan giữa thế và lực, tấn
công và phòng thủ, để đi đến kết luận về thế trận cách mạng trên bàn
cờ đấu tranh:
Vốn trƣớc hai bên ngang thế lực
Mà sau thắng lợi một bên giành
Tấn công phòng thủ không sơ hở
Đại tƣớng anh hùng mới xứng danh.
Một thể thơ, vốn mang đậm tính khuôn mẫu, cổ điển, nhƣng
trong tay Bác, lại trở thành phƣơng tiện ngôn ngữ linh hoạt, đúc
kết sắc bén triết lý đấu tranh cách mạng, mang tính thời đại, tính
chính trị sâu sắc.
Ngày 11/11, kỷ niệm kết thúc Đại chiến Thế giới lần thứ nhất
(1914 - 1918), Bác viết bài Song thập nhất (Ngày 11/11), nêu lên nhận
định của mình về vai trò của các nƣớc châu Á trong công cuộc kháng
chiến chống chủ nghĩa phát xít:
Kháng Nhật cờ bay khắp Á châu
Cờ to, cờ nhỏ chẳng đều nhau
Cờ to ắt hẳn là nên có
Cờ nhỏ dù sao, thiếu đƣợc đâu.
Bài thơ không triển khai theo mạch khai, thừa, chuyển, hợp
thƣờng gặp ở thơ tứ tuyệt mà phát triển theo hình tƣợng lá cờ (tinh
kỳ), biểu tƣợng của phong trào kháng Nhật ở mỗi nƣớc. Hai chữ “tinh
kỳ” lặp đi lặp lại bốn lần trong suốt cả 4 dòng thơ, gợi không khí
kháng Nhật sục sôi khắp châu Á.
Bác dùng hình ảnh lá cờ để khái quát cao trào chống Nhật đồng
thời nêu lên một quan điểm đầy tự chủ và sắc sảo không chỉ tình hình
Việt Nam mà cả tình hình thế giới, không chỉ vai trò của các nƣớc lớn,
mà còn vai trò của nƣớc nhỏ (kể cả nhƣợc tiểu), để khẳng định vai trò
không thể thiếu của mỗi quốc gia trong sự nghiệp chung:
26 | TS. Phạm Thị Xuân Châu
Nƣớc lớn có vai trò của nƣớc lớn: Cờ to ắt hẳn là nên có. Nhƣng
nƣớc nhỏ cũng có vai trò của nƣớc nhỏ: Cờ nhỏ dù sao, thiếu đƣợc
đâu. Không thể bỏ qua, xem nhẹ, coi thƣờng. Bác đã khẳng định chủ
quyền của mọi dân tộc, dù là dân tộc nhỏ, cũng chính là phê phán chủ
nghĩa sô-vanh (nƣớc lớn), hòng áp đặt bá quyền đối với những nƣớc
vẫn bị coi là nhƣợc tiểu. Quan điểm dân tộc của Bác mang tính quốc
tế rộng lớn, đòi hỏi trên toàn thế giới là phải có sự tôn trọng lẫn nhau
và có sự bình đẳng giữa các dân tộc.
Tƣ duy cách mạng rộng lớn của Bác chứa đựng trong một bài thơ
rất nhỏ. Bác dùng bài tứ tuyệt luật Đƣờng cải biên để khẳng định sự
thật và chân lý chính trị một cách ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu, mang
tính thời đại.
Trong thơ Bác không chỉ có trí tuệ cách mạng, mà còn có những
tình cảm cách mạng giữa những ngƣời đồng chí, đồng đội. Đáng nhớ
nhất là những bài thơ Bác viết về các bậc nhân sĩ yêu nƣớc, những con
ngƣời đạo cao đức trọng đã vì chính nghĩa dân tộc mà tự nguyện từ bỏ
tất cả, lên chiến khu tham gia kháng chiến, phục vụ đất nƣớc, phục vụ
nhân dân, nhƣ bài nhƣ Tặng Bùi công (Tặng cụ Bùi Bằng Đoàn), Tặng
Võ công (Tặng cụ Võ Liêm Sơn). Cụ Bùi Bằng Đoàn nguyên là
Thƣợng thƣ của triều đình cũ. Cụ nổi tiếng liêm khiết, Bác Hồ vô
cùng quý trọng. Bài thơ tứ tuyệt chữ Hán của Bác viết tặng cụ tỏa ra
một tình tri kỷ đằm thắm sáng trong. Cụ Võ Liêm Sơn từng đỗ đạt,
làm quan dƣới triều Nguyễn một thời, rồi cáo quan bỏ về để phản đối
thực dân Pháp xâm lƣợc, phản đối thái độ nhu nhƣợc của triều đình.
Bài thơ Bác Hồ viết tặng cụ Võ chan chứa tình đồng cảm tri âm. Bài
thơ chữ Hán, viết đúng luật thi, diễn tả thật đằm thắm, sâu sắc tình
cảm của những con ngƣời cùng chung lý tƣởng thờ dân, thờ nƣớc, tận
hiếu, tận trung, với một niềm tin sắt đá: Kháng chiến ắt thành công.
Còn có một bài thơ đặc biệt cảm động là bài Điếu Huỳnh Bộ
trƣởng thi (Thơ viếng Huỳnh Bộ trƣởng), đề ngày 21/ 4/1947, ngày tạ
thế của cụ chí sĩ yêu nƣớc Huỳnh Thúc Kháng. Bài thơ tiếng Việt, viết
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 27
theo thể ngũ ngôn bát cú Đƣờng luật có những chỗ phá cách, mở đầu
lại tiếng than thống thiết:
Than ôi!
Bể Đà Nẵng triều thảm Trông vào Bộ Nội vụ
Đèo Hải vân mây sầu Tài đức tiếc thƣơng nhau
Tháng tƣ tin buồn đến Đồng bào ba chục triệu
Huỳnh Bộ trƣởng đi đâu? Đau đớn lệ rơi châu.
Đầu năm 1947, cụ Huỳnh Thúc Kháng trên hai cƣơng vị Bộ
trƣởng Bộ Nội vụ và Hội trƣởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam
(Liên Việt) đi kinh lý các tỉnh miền Trung. Tháng 4 năm 1947 khi cụ
đang thị sát tình hình tại Quảng Ngãi thì đột ngột lâm bệnh nặng.
Biết mình khó qua khỏi, ngày 14/4/1947 cụ viết bức thƣ tâm huyết
gửi Bác Hồ:
“Tôi bệnh nặng chắc không qua khỏi. Bốn mƣơi năm ôm ấp độc
lập và dân chủ, nay nƣớc nhà đã đƣợc độc lập, dân chủ đã đƣợc
thực hiện. Thế là tôi chết hả. Chỉ tiếc là không đƣợc gặp lại Cụ lần
cuối cùng. Chúc Cụ sống lâu để dìu dắt quốc dân trên đƣờng vinh
quang hạnh phúc. Chào quyết thắng!”
Cụ Huỳnh ra đi để lại trong Bác xiết bao trống vắng và buồn
thƣơng, nhớ tiếc. Bác viết bài thơ ngũ ngôn bát cú luật Đƣờng, nhƣng
lại có tính chất một tế văn. Điều chƣa từng gặp trong thơ cổ chí kim.
Hai tiếng “Than ôi!” đầy thống thiết mở ra cảm xúc đớn đau.
Hai câu thơ đầu cũng không có tính chất khai đề, thừa đề của thơ
luật mà đi ngay vào hình ảnh buồn thƣơng của đất trời xứ Quảng:
Than ôi! Bể Đà Nẵng triều thảm/ Đèo Hải Vân mây sầu.
Thơ luật ít khi đối ở hai câu đề, nhƣng trong trƣờng hợp này, Bác
đã đặt lên trƣớc hai hình ảnh đối nhau, bổ sung ý nghĩa cho nhau để
nói cho hết nỗi buồn thƣơng của đất trời non nƣớc quê hƣơng trƣớc sự
28 | TS. Phạm Thị Xuân Châu
ra đi đột ngột của cụ Huỳnh, ngƣời con ƣu tú của mảnh đất nhân kiệt,
địa linh. Những câu tiếp theo cũng không triển khai theo luật mà đều
tập trung nói nỗi buồn mất mát:
Nỗi ngơ ngác, hẫng hụt:
Tháng tƣ tin buồn đến
Huỳnh Bộ trƣởng đi đâu?
Nỗi đau buồn của Bác:
Trông vào Bộ Nội vụ
Tài đức tiếc thƣơng nhau.
Nỗi đau đớn của đồng bào:
Đồng bào ba chục triệu
Đau đớn lệ rơi châu.
Về ngôn từ, viết về sự ra đi của một bậc chí sĩ yêu nƣớc, hết lòng
vì nƣớc vì dân, nên Bác dùng nhiều từ Hán Việt trang trọng xen các từ
thuần Việt giàu sắc thái biểu cảm: than ôi, sầu, thảm, buồn, đau đớn,
lệ, châu... tạo thành dòng cảm xúc trữ tình lâm ly, thống thiết. Bút
pháp mà không phải bút pháp, thể loại mà lại “phi” thể loại, vì sự thật,
chính cái gốc tình cảm mới là yếu tố quyết định hình thức và kết cấu
của bài thơ.
Bài thơ rất gọn, câu thơ rất ngắn mà nói đƣợc đầy đủ cái tình hết
mực thâm trọng của Bác, của nhân dân đối với cụ Huỳnh, đồng thời
qua đó ngƣời đọc thấy đƣợc tài cao, đức trọng và uy tín lớn của cụ
Huỳnh đối với nhân dân.
Ngày 29/4/1947, hơn một tuần sau khi cụ Huỳnh tạ thế, Bác Hồ
viết thƣ gửi đồng bào cả nƣớc: “Cụ Huỳnh là ngƣời học hành rất
rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao. Vì lòng yêu nƣớc mà trƣớc đây
cụ bị bọn thực dân làm tội, đày ra Côn Đảo mƣời mấy năm trƣờng,
gian nan cực khổ nhƣng lòng son dạ sắt, yêu nƣớc thƣơng nòi của cụ
Huỳnh, chẳng những không sờn, lại thêm kiên quyết. Cụ Huỳnh là
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 29
ngƣời giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khổ không làm nản chí,
oai vũ không làm sờn gan. Cả đời cụ Huỳnh không cầu danh vị, không
thèm làm quan. Cả đời cụ Huỳnh phấn đấu cho nhân dân đƣợc tự do,
nƣớc độc lập”.
Bài thơ và bức thƣ của Bác là minh chứng cho tình đồng tâm,
tri kỷ sâu nặng của Bác đối với cụ Huỳnh Thúc Kháng, và cũng là
tình cảm cách mạng cao đẹp mà Bác hƣớng tới những bậc chí sĩ của
dân tộc.
3. Về con ngƣời
Thơ Bác nói chung, Nhật ký trong tù nói riêng, chan chứa một tinh
thần nhân đạo cao cả. Đọc Nhật ký trong tù, ta luôn bắt gặp một tình
thƣơng bao la hƣớng về những kiếp ngƣời đau khổ mà Bác đã gặp
trong nhà tù Trung Quốc hay trên đƣờng bị chuyển lao. Bác thƣơng từ
em nhỏ chƣa đầy một tuổi đã phải theo mẹ đến ở nhà tù, thƣơng đến
ngƣời phu làm đƣờng dãi gió dầm mƣa; Bác ngậm ngùi xót xa cho
ngƣời bạn tù khổ đau vừa mới chết; Bác chạnh lòng thƣơng cho cảnh
ngộ của vợ chồng ngƣời bạn tù trong cảnh “gần nhau trong tấc gang,
mà biển trời cách mặt”; Bác hiểu lòng ngƣời trong tiếng sáo ly hƣơng
và thƣơng ngƣời cô phụ phƣơng xa mòn mỏi ngóng trông chồng.
Có thể nói, trái tim nhân ái bao la của Ngƣời nhƣ vầng dƣơng ấm
áp bao dung chiếu tới mọi cảnh đời. Vậy nên, Bác vui khi ngƣời nông
dân đƣợc mùa cƣời tƣơi hớn hở (Dã cảnh), Bác xót xa khi trên đƣờng
đi nhìn cảnh hạn hán, ngƣời nông dân rơi vào cảnh cơ khổ mất mùa:
Nghe nói xuân nay trời đại hạn/ Mƣời phân thu hoạch chỉ vài phân
(Long An - Đồng Chính), Bác quên đi nỗi mệt nhọc, cô đơn trên
đƣờng lƣu đày để đồng cảm với cuộc sống bình dị, đơn sơ của ngƣời
lao động: Cô em xóm núi xay ngô tối/ Xay hết lò than đã rực hồng)
(Mộ - Chiều tối).
Không hề có một khoảng cách hay sự phân biệt nào trong tình
cảm của Bác đối với nhân dân Trung Quốc. Bác xót thƣơng đồng bào
30 | TS. Phạm Thị Xuân Châu
của mình trong cảnh lầm than, và Bác cũng thƣơng xót nhân dân
Trung Hoa trong cảnh đời đau khổ. Cho dù chính cái chính quyền của
Tƣởng Giới Thạch khi ấy đang bắt giam Ngƣời một cách vô lý và đầy
đọa Ngƣời qua bao nỗi đắng cay.
Đọc thơ Đƣờng luật của Bác, ta nhận thấy sự cải biên để tạo ra
những biến thể, phá cách chẳng qua cũng chỉ là để diễn tả một chiều
sâu tƣ tƣởng, một ý nghĩa nhân sinh cao đẹp trong trái tim rộng lớn
của Ngƣời. Chẳng hạn bài Tân Dƣơng ngục trung hài (Cháu bé trong
nhà lao Tân Dƣơng), một bài thơ tứ tuyệt luật Đƣờng nhƣng lại mở
đầu bằng một câu thơ phi Đƣờng luật:
Oa...! Oa...! Oa...!
Cha trốn không đi lính nƣớc nhà
Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi
Phải theo mẹ đến ở nhà pha.
Câu thơ mở đầu chỉ có 3 tiếng “Oa...! Oa...! Oa, là âm thanh
tiếng khóc của cháu bé trong nhà lao. Chính câu thơ “tam ngôn” với
ba chữ tƣợng thanh “Oa...! Oa...! Oa...!” hoàn toàn thuần Việt đã
gây ra ấn tƣợng mạnh mẽ về tiếng khóc của cháu bé sơ sinh vang lên
trong tù ngục, vọng vào trái tim ta niềm xót xa, thƣơng cảm, gieo nỗi
bất bình, phẫn nộ về chính sách vô nhân đạo và hết sức vô lý của nhà
cầm quyền Tƣởng Giới Thạch lúc đƣơng thời.
Yêu thƣơng những con ngƣời khổ đau bất hạnh bao nhiêu, Bác
cũng kịch liệt phê phán những kẻ vô lƣơng, bất chính bấy nhiêu. Ngòi
bút của Bác lúc thì trữ tình đằm thắm, khi lại trào lộng sâu cay, nhƣ
trƣờng hợp bài thơ Lai Tân (來賓), bài thơ số 96 của Nhật ký trong tù.
Xuất phát từ yêu cầu biểu đạt nội dung, Bác đã sử dụng một kết
cấu độc đáo, không theo trình tự, lớp lang kiểu khai, thừa, chuyển,
hợp của tứ tuyệt luật Đƣờng. Ở đây, Bác dùng cả ba câu đầu vào một
nhiệm vụ, nhƣ ba mũi xung kích cùng giáp công một tiền đồn:
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 31
Câu 1: Ban trƣởng nhà lao chuyên đánh bạc
Câu 2: Giải ngƣời cảnh trƣởng kiếm ăn quanh
Câu 3: Chong đèn huyện trƣởng làm công chuyện
Câu 4, bất ngờ hạ xuống, kết thúc nhẹ bẫng:
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình
Bằng kết cấu “lệch chuẩn” đặc biệt này, Bác đã lôi ra giữa thanh
thiên bạch nhật những chân dung nhem nhuốc của các vị chức sắc, từ
ban trƣởng nhà lao đến cảnh trƣởng, huyện trƣởng, mỗi ngƣời một vẻ,
nhƣng đều giống nhau ở chỗ cùng đại diện cho bộ mặt đen tối, thối nát
của chính quyền (Tƣởng Giới Thạch). Họ đều là “trƣởng” (ngƣời
đứng đầu) nhƣng ngày ngày chỉ cặm cụi và mẫn cán với những tệ
đoan: cờ bạc, ăn chặn, chơi bời, hút xách, nhận hối lộ..., trong khi đó,
thật mai mỉa và khôi hài thay:
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình
(Lai Tân y cựu thái bình thiên).
Kết cấu 3/1, với vai trò bình đẳng, ngang hàng của câu 1, 2, 3 và
sự kết thúc đột ngột, bất ngờ ở câu 4 đã tạo ra một nét nhấn “chết
ngƣời”, cho ngƣời đọc thấy rõ tấm màn giả tạo “nghìn thu thái bình”
không che đƣợc hiện thực thối nát. Với bút pháp thâm thúy, với thủ
pháp nghệ thuật đối lập, kiểu câu lặp cú pháp mà chủ ngữ là những
ban trƣởng, cảnh trƣởng, huyện trƣởng cùng với những việc làm dơ
dáy của họ, bài thơ Đƣờng luật phá cách này giống nhƣ một cuộn
phim tƣ liệu cực ngắn, cực sắc lƣu lại vĩnh viễn bức tranh hiện thực
đen tối của xã hội Trung Quốc dƣới thời Tƣởng Giới Thạch. Giúp ta
nhìn đƣợc sâu hơn vào số phận khổ đau của nhân dân Trung Quốc
cũng nhƣ tình cảnh khốn cùng của những phạm nhân chẳng may trót
sa chân vào chốn ngục tù.
Cũng đứng trên lập trƣờng nhân văn sâu sắc, Bác có một cái nhìn
rất riêng, khác nhiều ngƣời về công trình Vạn lý Trƣờng Thành:
Nghe nói Trƣờng Thành vạn dặm trƣờng
Chạy từ Đông Hải tới Tây cƣơng.
32 | TS. Phạm Thị Xuân Châu
Hàng bao nhiêu triệu ngƣời lao động
Xây đắp thành này trấn một phƣơng.
(Vịnh Vạn lý Trƣờng Thành)
Vạn lý Trƣờng Thành là một công trình kiến trúc thành lũy lớn
nhất trong lịch sử văn minh nhân loại, đƣợc UNESSCO xếp loại là
một trong bảy kỳ quan của thế giới. Năm 1955, Bác sang thăm Trung
Quốc. Đứng trƣớc Vạn lý Trƣờng Thành đồ sộ, nhƣng Bác không
choáng ngợp vì sự vĩ đại của nó mà xúc động nghĩ tới nhân dân,
những con ngƣời bình thƣờng nhất, bé nhỏ nhất, chịu nhiều khổ đau
và thiệt thòi nhất, hàng trăm vạn ngƣời, đã đắp nên thành này để “trấn
giữ một phƣơng”. Máu, mồ hôi, và nƣớc mắt của nhân dân lao động từ
bao nhiêu thế kỷ đã chảy xuống để dựng nên cho ai một Vạn lý
Trƣờng Thành?
Có thể thấy, tầm cao tƣ tƣởng, chiều sâu nhân văn, chính là nhân
cách văn hóa lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Ngƣời đứng trƣớc
công trình này, và đã viết nên bài thơ chỉ có bốn câu, hoàn toàn theo
đúng luật Đƣờng để nói quan điểm riêng của Bác về nhân dân, về Vạn
lý Trƣờng Thành.
Đến Khúc Phụ, Sơn Đông thăm miếu Khổng Tử, Bác cũng có
những cảm nghĩ sâu sắc để ngày nay chúng ta đƣợc học tập:
五月十九訪曲父 Ngũ nguyệt thập cửu phỏng Khúc Phụ,
古松古廟两依稀 Cổ tùng cổ miếu lƣỡng y hi.
孔家世力今何在 Khổng gia thế lực kim hà tại?
只剩斜陽照古碑 Chỉ thặng tà dƣơng chiếu cổ bi.
Dịch nghĩa:
Ngày 19 tháng 5 tới thăm Khúc Phụ,
Cây tùng cổ, ngôi miếu cổ, cùng chìm trong hoang vắng.
Thế lực họ Khổng ngày nay ở nơi nào?
Chỉ còn sót lại chút nắng chiều tà chiếu trên tấm bia cổ.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 33
Bài thơ chữ Hán, viết theo đúng đặc trƣng thể tứ tuyệt luật Đƣờng.
Câu 1: nói thời gian đến thăm Khúc Phụ, quê hƣơng của Khổng
Phu Tử.
Câu 2: nói không gian cảnh thực ngày nay: cây tùng nghìn tuổi,
ngôi miếu nghìn năm, cùng nhƣ chìm trong hoang vắng.
Từ cảnh thực ở câu 2, Bác mới đi tới câu thứ 3, nói những ý nghĩ
sâu xa của mình về Khổng giáo, mà Bác thấy là một thế lực đã lỗi thời
(dù Bác thấu hiểu Khổng Tử đã từng có một vị trí nhất định trong lịch
sử tƣ tƣởng phƣơng Đông):
Khổng gia thế lực kim hà tại?
Hai chữ “thế lực” nguyên để chỉ một sức mạnh đè nén, áp chế tƣ
tƣởng và số phận con ngƣời. Vậy nên, bốn chữ “Khổng gia thế lực”
mà Bác dùng mang nội hàm ý nghĩa phê phán rất sâu xa:
1) Đó là cái thế lực đã đèn nén con ngƣời công dân, không cho
con ngƣời có quyền tự do sống, giam con ngƣời trong vòng “tam
cƣơng” của Nho giáo, thống trị tƣ tƣởng con ngƣời bằng lí thuyết
quân thần/ vua và bề tôi, trói chặt con ngƣời trong vòng kiềm tỏa
của kẻ thống trị (Quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung/ Vua bảo
bề tôi chết, mà không chịu chết là bất trung).
2) Đó là cái thế lực đã đè nén ngƣời phụ nữ dƣới chế độ nam
quyền bất bình đẳng “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, khinh miệt
nữ giới: “Nữ nhân nan hóa”, và đặt ra thuyết “tam tòng” hà khắc trói
buộc ngƣời phụ nữ suốt cả cuộc đời “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng
phu, phu tử tòng tử”.
Bác phê phán Khổng giáo, nhƣng không phải là phê phán nội
dung đạo đức của đạo Khổng, mà là phê phán cái quyền uy, cái thế
lực đã hàng nghìn năm đè nén, áp chế con ngƣời bằng học thuyết
Khổng giáo.
Chính vì không công nhận tƣ tƣởng thống trị của Khổng giáo, cho
đó là một học thuyết đã lỗi thời, không còn phù hợp với thời đại cách
34 | TS. Phạm Thị Xuân Châu
mạng ngày nay, nên Bác đã nêu một câu hỏi đầy thâm thúy: Khổng
gia thế lực kim hà tại? Hỏi nhƣng chính là để khẳng định: Thế lực
hàng nghìn năm của họ Khổng nay đã đâu còn!
Cho nên, dƣới cái nhìn đầy chất nhân văn của Bác thì ngày nay
học thuyết Khổng giáo chỉ nhƣ ánh chiều tà còn rớt lại, cũng nhƣ
những gì đã đƣợc chạm khắc vào trong tấm bia cổ kia giờ đây cũng
nhạt mờ theo thời gian và đang chìm vào trong bóng tà dƣơng của
lịch sử:
Chỉ thặng tà dƣơng chiếu cổ bi.
KẾT LUẬN
1) Di sản của Bác để lại cho chúng ta trong mấy trăm bài thơ
Đƣờng luật Bác đã viết bằng chữ Hán và chữ Việt đã cho ta bài học
lớn về việc dùng nghệ thuật cổ điển, có những sáng tạo, để diễn đạt
những ý tƣởng hiện đại. Ta cũng thấy trong thơ của Bác có “trăm
lời trăm ý đẹp”, là những “vần thơ thép” mà vẫn “mênh mông bát
ngát tình”.
2) Dù khi phá cách, cải biến, hay khi giữ nguyên luật lệ của thơ
Đƣờng, thì thơ Bác vẫn thể hiện đúng con ngƣời Bác: không thụ động,
không sao chép, máy móc, mà luôn cơ động, linh hoạt, độc lập trong
tƣ duy và tự chủ trong sáng tạo. Chính điều đó làm nên phong cách
thơ Đƣờng luật của Bác: cổ điển mà hiện đại, truyền thống mà cách
mạng, làm đẹp thêm cho di sản thơ Đƣờng luật của dân tộc.
3) Giá trị thơ của Bác không phải chỉ đƣợc phát huy trong phạm
vi nƣớc ta mà còn đƣợc thế giới tìm hiểu và ngƣỡng mộ. Ông giám
đốc nhà xuất bản Pháp Pierre Seghers, khi xin in thơ Bác có phát
biểu rằng:
“Ngƣời đọc thơ Hồ Chí Minh nếu không nâng tâm trí mình lên
đúng mức thì rất khó để hiểu cho hết đƣợc cái tinh túy của thơ”.
PTXC
CHẤT CHÂN THỰC VÀ LẠC QUAN
TRONG THƠ CHÛ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Nhà thơ Hoài Yên
Nguyên Chủ tịch CLB UNESCO Thơ Đƣờng Việt Nam
ĐT: 09 888 95 738
Nghe nói học giả ngƣời Trung Hoa, ông Quách Mạt Nhƣợc, khi
đọc Ngục trung nhật ký của chủ tịch Hồ Chí Minh, đã khen hay và ví
với thơ của các danh sĩ đời Đƣờng. Điều đó có khía cạnh đúng, nhƣng
cũng có khía cạnh chƣa chính xác.
Khía cạnh đúng là ở tính chân thực trong biểu cảm thơ của họ
giống nhau, khiến những bài thơ đều hay và dễ đi vào lòng ngƣời đọc.
Ở khía cạnh khác, thơ chủ tịch Hồ Chí Minh thì lạc quan yêu đời, đầy
tự tin, còn thơ của các danh sĩ đời Đƣờng thì ngập chìm trong “nỗi
sầu vạn cổ”.
Chúng ta hãy phân tích 2 bài thơ làm ví dụ dƣới đây để chứng
minh luận điểm này:
Bài “Giải đi sớm” của chủ tịch Hồ Chí Minh:
I-
“Gà gáy một lần đêm chửa tan
Chòm sao đƣa nguyệt vƣợt lên ngàn
Ngƣời đi cất bƣớc trên đƣờng thẳm
Rát mặt đêm thu trận gió hàn.”
II-
“Hƣớng đông màu trắng chuyển sang hồng
Bóng tối đêm tàn quét sạch không
Hơi ấm bao la trùm vũ trụ
Ngƣời đi thi hứng bỗng thêm nồng.”
Nam Trân (Dịch)
36 | Hoài Yên
Bài “Lúc chiều hôm” của danh sĩ thi thánh Đỗ Phủ (Đời Đƣờng):
“Nƣớc sông còn chảy mãi nơi này
Núi vắng mây chiều lơ lửng bay
Hoa lạnh nép mình trong cỏ rối
Chim buồn chọn chỗ giữa cây dày
Ngày nào nƣớc cũ về thăm nhỉ?
Thu muộn lòng riêng chịu khổ đây!
Tuổi trẻ đời ngƣời không trở lại
Bạc phau mái tóc tựa tơ gầy.”
Đinh Vũ Ngọc (Dịch)
Cách chọn bối cảnh thiên nhiên ở cả 2 bài đều có dụng ý. Chủ tịch
Hồ Chí Minh chọn buổi sáng, bắt đầu tử nửa đêm về sáng, trời còn
đang tối tăm mù mịt với những cơn gió rét mùa thu rát mặt. Nhƣng
sau đó, trời sáng hồng, hơi ấm tràn ngập, khiến ngƣời thơ dâng trào
cảm hứng. Tinh thần lạc quan của bài thơ bao trùm.
Trong khi đó, thi thánh Đỗ Phủ chọn khung cảnh buổi chiều của
một ngày sắp tàn. Ở thời của ông phổ biến một quan điểm là “Thi dĩ
bi vi mỹ” (Thơ có buồn mới hay), ngƣời thơ bơi trong “nỗi sầu vạn
cổ”, thƣơng cho thân phận chịu “riêng nỗi khổ đây, tiếc cho thời trai
trẻ không trở lại và ngán cho mái tóc bạc tựa tơ gầy! Cái khung cảnh
của một chiều thu muộn, mây bay lơ lửng, hoa lạnh chim buồn giúp
cho tác giả dễ gửi gắm lòng mình đang nhớ về quê hƣơng, những
mong giải tỏa nỗi buồn, nhƣng hình nhƣ lại càng buồn thêm! Nói nhƣ
thi tiên Lý Bạch “Cử bôi tiêu sầu, sầu cánh sầu”.
Cả hai bài thơ đều hay, đều dễ đi vào lòng ngƣời, bởi vì cả hai
tác giả đều giãi tỏ lòng mình một cách chân thực, thánh thiện (Có
chân, có thiện ắt có mỹ). Nhƣng họ khác nhau ở tinh thần và quan
điểm sống, nên những gì họ gửi gắm qua bài thơ thì hoàn toàn khác
nhau. Cái hay của thơ Đỗ Phủ, hàng nghìn năm nay đã đƣợc khẳng
định, nhƣng quan điểm “Dĩ bi vi mỹ” thì hiện thời không còn phù
hợp nữa. Thơ nói chung, đâu chỉ có buồn mới hay!?
HY
BÁC HỒ VẬN DỤNG TUYỆT CÚ ĐƯỜNG THI
PGS-TS Hồ Sĩ Hiệp
Đại học Sƣ phạm Tp. Hồ Chí Minh
Bác Hồ là ngƣời tinh thông Hán ngữ, yêu thích văn học cổ Trung
Quốc. Từ nội dung các truyện cổ dân gian “Ngu Công dời núi” và
“Chim Tinh Vệ lấp biển” Bác đã sáng tác ra mấy câu thơ giản đơn
nhƣng ý nghĩa sâu sắc trong những năm khó khăn gian khổ, có tính
chất châm ngôn nhằm giáo dục thanh niên:
“Không có việc gì khó,
Chỉ sợ lòng không bền,
Đào núi và lấp biển,
Quyết chí ắt làm nên.”
“Lƣơng Sơn bá – Chúc Anh Đài” cũng là một truyện dân gian
quen thuộc của nhân dân Trung Quốc. Những năm sau hòa bình lập lại
(1954) sau khi xem đoàn Cải lƣơng Khu 4 diễn vở “Lƣơng Sơn Bá –
Chúc Anh Đài” Bác đã cảm hứng đọc mấy câu thơ sau đây nói lên
cảm nghĩ của mình về xã hội thời xa xƣa: Đánh cho phong kiến tan
tành, Cho bao nhiêu Anh Đài, Sơn Bá đƣợc thành lứa đôi …”
Ngoài văn học dân gian trong văn học Trung Quốc, Bác yêu thích
thơ Đƣờng, thơ Tống. Trong đời sống hàng ngày nhất là trong các bài
nói, bài viết Ngƣời thƣờng dẫn chứng nhiều thi từ, thi liệu của thơ ca
cổ điển Trung Hoa. Trong “Nhật ký trong tù”, ở trên đất nƣớc Trung
Quốc mặc dù tự nhận là “ngâm thơ ta vốn không ham” nhƣng vì
“trong ngục biết làm gì đây” nên Bác đành “vừa ngâm vừa đợi đến
ngày tự do”. Trong hơn một năm ngồi tù với cảnh “Quảng Tây giải
khắp mƣời ba huyện” để “vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do”, Bác đã
38 | PGS.TS. Hồ Sĩ Hiệp
đọc một tuyển tập thơ ca cổ điển Trung Quốc, sau đó Bác có làm thơ
nói lên cảm tƣởng của mình khi đọc tập thơ này – đó là bài “Cảm
tƣởng đọc Thiên gia thi” (Khán Thiên gia thi hữu cảm). “Thiên gia
thi” là một tập thơ mỏng, tuyển chọn các bài thơ tả cảnh thiên nhiên
phổ biến của thời Đƣờng – Tống thời xƣa dùng làm sách học cho trẻ
con ở nhà trƣờng. Tập này lƣu truyền khá phổ biến ở vùng Liễu Châu,
tỉnh Quảng Tây. Trong thời gian thực tập Hán ngữ ở trƣờng Đại học
Sƣ phạm Quảng Tây tại Quế Lâm chúng tôi nhiều lần đến Liễu Châu.
Đi qua những nơi mà Bác Hồ đã từng đến và bị “giải khắp mƣời ba
huyện” của tỉnh Quảng Tây, chúng tôi đều cảm nhận thêm về tên đất,
tên ngƣời và sự việc mà Bác miêu tả trong “Nhật ký trong tù”. Trong
các hiệu sách lớn nhỏ của tỉnh Quảng Tây ngày nay, tập “Thiên gia
thi” đƣợc bày bán rất nhiều. Điều này gợi cho chúng tôi sự ƣớc đoán
là những thập kỷ đầu của thế kỷ này, “Thiên gia thi” là tác phẩm đƣợc
lƣu truyền rộng rãi ở các tỉnh miền Nam Trung Quốc, nhất là ở Quảng
Tây và Quảng Đông.
Ở Trung Quốc hiện nay, có nhiều tập “Thiên gia thi”, nhƣ: “Thiên
gia thi” do Tạ Phƣơng Đắc chủ biên (Bắc Kinh, Đại Trung ấn loát),
“Thiên gia thi” do Lƣu Hậu Thôn biên soạn từ đời Tống. Theo chúng
tôi, bản “Thiên gia thi” mà Bác đọc trong thời gian ở nhà tù Liễu Châu
là bản của Lƣu Hậu Thôn, ngƣời đời Tống biên soạn.
“Thiên gia thi” dày hơn 200 trang, tuyển chọn 228 bài thơ của hơn
một trăm tác giả nổi tiếng (cũng có một số bài vô danh) của các đời
Đƣờng – Tống. Trong số các tác giả có thơ tuyển chọn vào thi tập và
có nhiều nhà thơ lớn nhƣ: Vƣơng Bột, Thôi Hiệu, Lý Bạch, Đỗ Phủ,
Bạch Cƣ Dị (Đƣờng), Tô Thức, Lục Du (Tống), v.v… Thơ đƣợc
tuyển chọn đều thuộc loại thơ cận thể: ngũ tuyệt (39 bài), ngũ luật (47
bài), thất tuyệt (94 bài). Các bài thơ này đều là những bài thơ ngắn,
thanh luật đơn giản, lời thơ trau chuốt, ít điển cố, điển tích, dễ đọc, dễ
thuộc. Ngoài phần tuyển thơ sau mỗi bài đều có lời giới thiệu tác giả,
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 39
chú giải và giải nghĩa rất cô đọng, dễ hiểu. Nhiều bài thơ hay đƣợc
truyền tụng trong thơ Đƣờng – Tống đều đƣợc tuyển chọn nhƣ bài
“Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu, “Tĩnh dạ tƣ” của Lý Bạch, “Khúc
giang” của Đỗ Phủ, “Phong Kiều dạ bạc” của Trƣơng Kế, “Thanh
minh” của Đỗ Mục,“Thu tứ” của Lục Du, v.v…
Đề tài khá phổ biến trong “Thiên gia thi” là thiên nhiên. Chính vì
vậy, cảm tƣởng đầu tiên của Bác khi đọc thi tập này là: “Cổ thi thiên
ái thiên nhiên mỹ” (Thơ xƣa nghiêng về yêu vẻ đẹp của thiên nhiên).
“Cổ thi” mà Bác nói ở đây là “Cổ thi” trong “Thiên gia thi”, tức là
thơ Đƣờng, thơ Tống thời xƣa. Vì là sách dạy học ở trong nhà trƣờng
phong kiến Trung Quốc với mục đích làm cho ngƣời dạy, ngƣời học
dễ thuộc, dễ nhớ ít liên quan đến xã hội, chính trị nên thơ tuyển chọn
trong “Thiên gia thi” phần lớn là thơ miêu tả về cảnh đẹp thiên nhiên
với cảnh núi sông, cỏ cây, hoa lá, hoa tuyết, gió mây mà Bác khái
quát là: “Sơn thủy yên hoa tuyết nguyệt phong” (Mây, gió, trăng, hoa,
tuyết, núi, sông) mà ít chú ý đến phản ảnh hiện thực đời sống xã hội.
Không có nhà thơ đời Đƣờng – Tống nào là không có những bài
thơ miêu tả thiên nhiên tuyệt hay. Cảnh “Mây, gió, trăng, hoa, tuyết,
núi, sông” mà Bác nói chính là những đề tài phổ biến trong thơ của
các nhà thơ nổi tiếng đời Đƣờng nhƣ: Lý Bạch, Vƣơng Duy, Mạnh
Hạo Nhiên, Cao Thích, Sầm Tham, Trƣơng Nhƣợc Nhƣ. Thái độ của
Bác sau khi đọc “Thiên gia thi” là nói lên cảm tƣởng của mình chứ
không phải phê bình nhƣ trƣớc đây nhiều ngƣời đã nhận định theo
câu thơ dịch “Thơ xƣa yêu cảnh thiên nhiên đẹp”. Theo ý ấy của Bác
có thể hiểu là: sau khi đọc “Thiên gia thi” ngoài các đề tài xã hội và
nhân sinh thì phần lớn các thi phẩm này “nghiêng về miêu tả cảnh
đẹp thiên nhiên” (thiên ái thiên nhiên mỹ). Từ cảm tƣởng đến đề tài
xã hội, nhân sinh, thơ ca phải là vũ khí, có tính chiến đấu cao, nhà
thơ phải là ngƣời chiến sĩ, hăng hái xung phong trên mặt trận văn
hoá tƣ tƣởng: “Nay ở trong thơ nên có thép; nhà thơ cũng phải biết
40 | PGS.TS. Hồ Sĩ Hiệp
xung phong” (Hiện đại thi trung ƣng hữu thiết, thi gia dã yếu hội
xung phong).
Trong thơ ca cổ điển Trung Hoa, Bác chịu ảnh hƣởng của thơ
Đƣờng khá sâu sắc về các mặt: thể loại, ngôn từ, thi tứ, tiêu đề, bút
pháp, v.v… Tuyệt đại thơ chữ Hán của Bác Hồ là thơ tứ tuyệt, tiêu đề
các bài thơ nhƣ: Thu dạ, Đối nguyệt, Đăng sơn, Thế lộ nan, Vọng
nguyệt, Trung thu, Dạ cảnh, Hoàng hôn trong thơ Bác đều rất phổ
biến trong thơ Đƣờng – Tống. Những lối thơ nhƣ vịnh, phỏng, tƣ,
tặng, vô đề mà Bác sử dụng đều quen thuộc trong thơ Đƣờng.
Thơ Đƣờng (618 - 907) là đỉnh cao chói lọi của thơ cổ Trung
Quốc và phƣơng Đông. Thời xƣa và ngay cả thời nay các nƣớc “đồng
văn” nhƣ Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam đều chịu ảnh hƣởng sâu
sắc của thơ Đƣờng. Sự ảnh hƣởng đó kết hợp với sự vận dụng, sáng
tạo để sáng tác những thi phẩm mang phong cách, thể luật và ngôn từ
hàm súc, tinh luyện của Đƣờng thi. Có thể nói ở các nƣớc phƣơng
Đông không có quốc gia nào chịu ảnh hƣởng và vận dụng sáng tạo thơ
Đƣờng nhƣ ở Việt Nam. Từ ngàn xƣa ở Việt Nam đã có các khái
niệm quen thuộc nhƣ “thơ Đƣờng”, “thơ Đƣờng luật”. “Thơ Đƣờng”
là để chỉ thơ Trung Quốc xuất hiện ở đời Đƣờng và “thơ Đƣờng” luật
là để chỉ thơ cổ Việt Nam mà ngƣời Việt Nam sáng tác theo thể thơ
Luật thi – thất ngôn bát cú của đời Đƣờng. Thơ Đƣờng luật gồm 8
câu, mỗi câu 7 chữ tuy đã là ngắn, gọn so với những kiệt tác trƣờng
thi kiệt tác trong thơ Đƣờng nhƣ “Trƣờng hận ca” và “Tỳ bà hành”
của Bạch Cƣ Dị nhƣng để rút gọn hơn, ngắn hơn, đơn giản và dễ
hiểu hơn, các nhà thơ đời Đƣờng đã có “sáng kiến” là “cắt” bài Luật
thi (8 câu) ra thành hai bài gọi là “tuyệt cú”. Chữ “tuyệt” trong “tuyệt
cú” vốn gọi là “tiệt cú” (tiệt là cắt – thơ 8 câu cắt ra), cắt từ một bài 8
câu của Luật thi thành ra hai bài 4 câu của thơ tuyệt cú. Tƣởng rằng
thơ Luật thi 8 câu hoàn chỉnh hay nhƣng thơ tuyệt cú 4 câu cũng rất
tuyệt diệu về ngôn từ và ý tứ nên đƣơng thời không gọi là thơ “tiệt
cú” (thơ câu cắt) mà gọi là thơ “tuyệt cú” (thơ câu hay). Ở Trung
Quốc xƣa nay thƣờng gọi thể thơ độc đáo này của thơ Đƣờng là tuyệt
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 41
cú còn ở Việt Nam hay gọi là thơ “tứ tuyệt”. Luật thi và tuyệt cú là
hai thể loại đặc sắc và rất phổ biến trong thơ Đƣờng. Hai bài “tuyệt
cú” là “Phong Kiều dạ bạc” của Trƣơng Kế và “Thanh minh” của
Đỗ Mục rất đƣợc yêu thích và lƣu truyền ở Việt Nam xƣa nay. Các
nhà thơ lớn của dân tộc ta nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hƣơng đều chịu ảnh hƣởng sâu sắc và sáng tạo đối với thơ tuyệt cú
đời Đƣờng. Các nhà thơ Việt Nam nổi tiếng nhƣ Tản Đà, Xuân Diệu,
Huy Cận, Chế Lan Viên, Thế Lữ, Tế Hanh đều yêu thích, chịu ảnh
hƣởng và vận dụng thể thơ rất đặc biệt này của thơ Đƣờng.
Bác Hồ là nhà chính trị đồng thời cũng là nhà văn hóa, nhà thơ.
Trong cuộc đời cách mạng, về văn, Ngƣời chịu ảnh hƣởng của văn
phƣơng Tây và Nga. Về thơ, Ngƣời am tƣờng, yêu thích và hay vận
dụng thơ Đƣờng để tuyên truyền, vận động và giáo dục quần chúng.
Ngƣời nói: “Ngâm thơ ta vốn không ham, nhƣng vì trong ngục biết
làm chi đây. Ngày dài ngâm ngợi cho khuây, vừa ngâm vừa đợi đến
ngày tự do” (Nhật ký trong tù). Bài “Khán Thiên gia thi hữu cảm”
(Cảm tƣởng đọc Thiên gia thi) có thể coi là một bài cảm nhận và phê
bình thơ đơn giản, dễ hiểu của Bác. Bác nói đến hai chữ “cổ thi” (thơ
cổ) để chỉ thơ cổ Trung Hoa chủ yếu là thơ Đƣờng. Đề tài phổ biến
trong thơ Đƣờng là “mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông”. Đó là thực
thể, là vẻ đẹp của tự nhiên. Hai câu cuối thể hiện cảm nghĩ và cũng có
thể nói là quan niệm của Bác đối với thơ ca hiện đại phải là có “chất
thép” và nhà thơ chẳng phải để “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”
mà phải biết “xung phong” mạnh mẽ trên mặt trận văn hóa.
Nói đến sự vận dụng thơ tuyệt cú đời Đƣờng của Bác trong cuộc
sống và hoạt động của Bác là phải nói đến một thi tập mà ở trong nhà
tù Tƣởng Giới Thạch ở Quảng Tây, Trung Quốc mà Bác có đọc và
sau đó có làm một bài thơ phát biểu cảm tƣởng – đó là tập thơ “Thiên
gia thi” (Thơ nghìn nhà) của nhà thơ cũng là nhà biên soạn đời Tống
là Lƣu Hậu Thôn. Thời gian ở trong nhà tù Tƣởng Giới Thạch Bác
đã đọc “Thiên gia thi” và họa theo một số bài với mục đích nói lên
cảm nghĩ, hoàn cảnh của bản thân và hiện thực ở chốn lao tù thời bấy
42 | PGS.TS. Hồ Sĩ Hiệp
giờ. Ngày nay, sau hơn 75 năm, đọc lại “Nhật ký trong tù” (1941) và
thơ kháng chiến làm trong kháng chiến ở Việt Bắc của Bác, mọi
ngƣời đều dễ nhận thấy Bác đã khéo vận dụng ý tứ, vần điệu, đề tài
của thơ tứ tuyệt đời Đƣờng trong cuộc sống và hoạt động cách mạng
của mình.
Qua “Nhật ký trong tù” và thơ chữ Hán của Bác, chúng ta có thể
thấy Bác vận dụng thơ Đƣờng – Tống rất nhiều. Câu thơ “xuân giang
xuân thủy tiếp xuân thiên” (sông xuân nƣớc lẫn, màu trời thêm xuân)
trong bài “Nguyên tiêu” của Bác không phải là không có duyên nợ
với câu thơ “Thu thủy cộng trƣờng thiên nhất sắc” (Sông thu cùng với
trời xa một màu) trong bài “Đằng Vƣơng Các tự” của thi sĩ Vƣơng
Bột. Đọc bài thơ “Vọng nguyệt” (Ngắm trăng) của Bác ngƣời đọc liên
tƣởng đến bài thơ “Tĩnh dạ thƣ” (Suy nghĩ trong đêm thanh tĩnh) của
Lý Bạch. Trong bài “Đi đƣờng” của Bác có hai câu: “Trùng sơn đăng
đáo cao phong hậu. Vạn lý dƣ đƣa cố miện gian” (Núi cao lên đến tận
cùng. Thu vào tầm mắt muôn trùng nƣớc non) thì cũng có tứ thơ giống
câu thơ “Dục cùng thiên lý mục. Cánh thƣớng nhất tầng lâu” trong bài
“Đăng Quán Tƣớc lâu” của Vƣơng Chi Hoán. Bài “Giữa đƣờng đáp
thuyền đi huyện Ung Ninh” của Bác có hai câu cuối: “Lƣỡng ngạn
hƣơng thôn trù mật thậm. Giang tâm ngƣ phủ điếu thuyền khinh” (Làng
xóm ven sông đông đúc thế. Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh) rất
gần với hai câu: “Lƣỡng ngạn viên thanh đề bất tận. Khinh chu dĩ quá
vạn trùng san” (Hai bên bờ sông tiếng vƣợn kêu không ngớt. Thuyền
nhẹ tênh tênh đã vƣợt núi muôn trùng) trong bài “Tảo phát Bạch Đế
Thành” của Lý Bạch. Bài “Trung thu II” của Bác có tứ thơ “Tâm tùy
thu nguyệt cộng du du” (Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu) là bắt
nguồn từ tứ thơ “Tâm tùy hồ thủy cộng du du” (Lòng ta cứ man mác
theo nƣớc hồ mênh mông) trong bài “Tống Lƣơng Lục” của Trƣơng
Duyệt, thi sĩ thời Khai–Nguyên, Thiên–Bảo, Thịnh–Đƣờng. Nếu trong
bài “Tống Lƣơng Lục” Trƣơng Duyệt tỏ ra bất lực trƣớc sự ƣớc mong
của mình (Vân đạo thần tiên bất khả tiếp) thì trong bài “Trung thu II”
của Bác, mặc dù “Chẳng đƣợc tự do mà thƣởng nguyệt” nhƣng Ngƣời
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 43
vẫn đạt đƣợc mong ƣớc theo cách riêng đầy lạc quan, yêu đời của mình
là “lòng theo vời vợi mảnh trăng thu”…
Trong các nhà thơ đời Đƣờng, Bác Hồ yêu mến và kính phục nhất
là Đỗ Phủ. Trong “Di chúc”, Bác đã nhắc đến Đỗ Phủ: Ông Đỗ Phủ là
ngƣời làm thơ rất nổi tiếng ở Trung Quốc, đời nhà Đƣờng có câu:
“Nhân sinh thất thập cổ lai hi” (đời ngƣời sống 70 xƣa nay hiếm). Câu
thơ mà Bác trích là từ bài “Khúc giang” của Đỗ Phủ. Bài “Khúc
giang” của Đỗ Phủ có hai câu là: “Tửu trái tầm thƣờng hành xứ hữu,
Nhân sinh thất thập cổ lai hi” (Nợ rƣợu thƣờng thƣờng đi đến đâu
cũng mắc phải, đời ngƣời sống 70 xƣa nay hiếm). Bác Hồ không trích
câu trên mà chỉ trích câu thơ sau của Đỗ Phủ để nói lên quy luật của
cuộc đời. Trong bài “Thất tửu” Bác lại có câu phảng phất giọng thơ
của Đỗ Phủ trong bài “Khúc giang”. Câu thơ của Bác là: “Nhân vị
ngũ tuần thƣờng thán lão” (Ngƣời đời thƣờng chƣa đến năm mƣơi đã
than già). Từ những dẫn chứng này có thể thấy Bác là ngƣời tâm đắc
và yêu mến thơ Đỗ Phủ nhƣ thế nào!
Đối với thơ ca cổ điển Trung Hoa thái độ của Bác là tiếp thu về
mặt hình thức và sáng tạo về mặt nội dung hay nói một cách khác, Bác
vận dụng từ ngữ, ý tứ, thi liệu trong thơ Đƣờng – Tống, từ đó thay đổi,
cải biến để diễn tả nội dung mới phù hợp với cách cảm, cách nghĩ độc
đáo của Bác. Ai cũng biết bài “Đăng Quán Tƣớc lâu” của Vƣơng Chi
Hoán là một bài thơ rất nổi tiếng hay cả về ý và lời. Câu thơ “Dục
cùng thiên lý mục. Cảnh thƣớng nhất tằng lâu” (Muốn tầm mắt nhìn
thấu nghìn dặm, hãy lên cao một tầng lầu) của Vƣơng Chi Hoán là tả
chiều cao và chiều rộng của không gian nhƣng chƣa nói đƣợc cái tình
ngƣời. Trong bài “Nạn hữu xuy địch” (Nghe bạn tù thổi sáo) dựa theo
tứ thơ của Vƣơng Chi Hoán nhƣng Bác diễn tả theo cách riêng của
mình. Cách riêng ấy là tình cảm, lòng thƣơng ngƣời vô hạn của Bác
trong chốn lao lung tù ngục: “Thiên lý quan hà khôn xiết nỗi, Lên lầu
ai đó ngóng trông nhau”. Rõ ràng hai câu thơ của Bác rất sâu sắc về ý
và lời. Câu thơ dàn trải về không gian, thời gian nhƣng nặng trĩu, sâu
44 | PGS.TS. Hồ Sĩ Hiệp
lắng về nỗi đau của lòng ngƣời. Sự so sánh, liên tƣởng của Bác trong
hai câu thơ này là đúng và hay.
Một nhà thơ đời Đƣờng mà Bác cũng có nhiều thiện cảm, đó là
Đỗ Mục (803 - 853). Ông tự Mục Chi, ngƣời Kinh Triệu, tỉnh Thiểm
Tây, năm 26 tuổi đậu tiến sĩ, có ra làm quan. Ông giỏi về thơ thất
ngôn, tuyệt cú, ý hàm súc, lời điêu luyện. Cùng với “Bạc Tần Hoài”,
“Thanh minh” là một bài thơ nổi tiếng của ông đƣợc ngƣời đời sau
truyền tụng. “Thanh minh” miêu tả tâm trạng u buồn, chán ngán và
lạnh lẽo của kẻ hành nhân lữ thứ trong cảnh thời tiết của ngày thanh
minh có mƣa phùn, rét buốt. Dựa vào tiêu đề của Đỗ Mục trong “Nhật
ký trong tù” Bác cũng sáng tác một bài thơ chữ Hán tên là “Thanh
minh”. Câu đầu của bài thơ Bác vẫn giữ nguyên câu thơ của Đỗ Mục
(Thanh minh thời tiết vũ phân phân) nhƣng đến câu thơ thứ 2, 3 và 4
thì Bác thay đổi từ ngữ để diễn tả nội dung hoàn toàn mới (Lung lý –
Tù nhân – Tự do – Vệ binh – Biện công môn). Ở đây không còn là
hình ảnh của một ngƣời lữ thứ trong ngày thanh minh trời lạnh, giá rét,
trời mƣa, cô đơn, u buồn chỉ biết tìm đến một quán rƣợu để giải sầu mà
là hình ảnh của một ngƣời tù nhân ở chốn lao lung, khát khao cuộc sống
tự do, có nhu cầu về quyền sống, quyền làm ngƣời. Đúng nhƣ nhận xét
của Phan Nhuận, ngƣời dịch “Nhật ký trong tù” ra tiếng Pháp, tuy Bác
thay đổi có 11 chữ nhƣng đã “thay đổi linh hồn của một bài thơ”. Có
nghĩa là từ bút pháp hoàn toàn hiện thực của Đỗ Mục, Bác đã chuyển
sang bút pháp lãng mạn cách mạng với nội dung hoàn toàn mới, mang
tính thời sự và thời đại sâu sắc.
Nói đến việc vận dụng sáng tạo và linh hoạt của Bác đối với thơ
tuyệt cú Đƣờng luật phải nói đến trƣờng hợp Bác sử dụng tứ thơ độc
đáo trong bài “Phong Kiều dạ bạc” của thi sĩ Trƣơng Kế (sống trƣớc
sau năm 756), ngƣời thời Thịnh Đƣờng. Ông là ngƣời Tƣờng Châu,
tỉnh Hồ Bắc, đậu tiến sĩ và có ra làm quan. Thơ của Trƣơng Kế chủ
yếu là thơ tả cảnh. Bài “Phong Kiều dạ bạc” (Đêm đậu thuyền ở bến
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 45
Phong Kiều) là thi phẩm tuyệt vời, không có thi tập và thi thoại nào là
không nhắc đến. Tƣơng truyền rằng thi phẩm này của Trƣơng Kế, có
đƣợc là do có cảm xúc dạt dào, bột phát của tác giả khi nghe tiếng
chuông chùa Hàn San trong đêm khuya thanh vắng vọng đến thuyền
khách đang đậu ở bến Phong Kiều. Trƣớc cảnh đẹp thiên nhiên vào
rằm tháng giêng ở Việt Bắc, Bác đã sáng tác bài thơ “Nguyên tiêu”.
Bài thơ của Bác mang “phong vị” của thơ Đƣờng rất rõ nét. Điều đáng
nói ở đây là tƣ thế của hai thi nhân ở hai hoàn cảnh khác nhau. Cùng
là ban đêm nhƣng thi sĩ Trƣơng Kế thì buồn sầu, thả hồn theo giấc ngủ
trên chiếc thuyền con bé nhỏ trƣớc cảnh đèn chài lẻ loi và hàng cây
phong lặng lẽ, trong khi đó đêm “Nguyên tiêu” Bác đang “giữa dòng
bàn bạc việc quân”, bàn về việc quốc gia đại sự giữa đêm khuya trong
núi rừng Việt Bắc. Tính chất thơ ca phƣơng Đông cổ kính, trang
nghiêm, với sự cách tân hiện đại đƣợc Bác thể hiện trong thi phẩm
tuyệt vời này. Cũng là cảnh ban đêm nhƣng cảnh trong bài “Phong
Kiều dạ bạc” là “trăng tà, tiếng quạ kêu sƣơng”, là “lửa chài, cây bến
sầu vƣơng giấc hồ”, là “thuyền ai đậu bến Cô Tô, nửa đêm nghe tiếng
chuông chùa Hàn San” còn cảnh trong bài “Nguyên tiêu” của Bác là
cảnh “Rằm xuân lồng lộng trăng soi”, là “Sông xuân nƣớc lẫn màu
trời thêm xuân”, là “Giữa dòng bàn bạc việc quân, khuya về bát ngát
trăng ngân đầy thuyền” ở núi rừng Việt Bắc trong những năm kháng
chiến gian khổ. Bài “Tặng Trần Canh đồng chí” (Tặng đồng chí Trần
Canh) của Bác là “họa” lại bài thơ “Lƣơng châu từ” của thi sĩ Vƣơng
Hàn đời Đƣờng. Bài thơ này của Bác là làm tặng tƣớng Trần Canh
thời kháng chiến ở Việt Bắc.
Ông Quách Mạt Nhƣợc là một nhà văn, nhà thơ lớn của Trung
Quốc. Khi ông sang thăm Việt Nam, vào thăm nơi ở và làm việc tại
ngôi nhà sàn trong Phủ Chủ tịch Bác đã mời ông Quách Mạt Nhƣợc
ngồi xuống sàn và cùng nói chuyện thơ văn. Bác nói với ông Quách
Mạt Nhƣợc về ấn tƣợng sâu sắc của Bác với thơ văn Đƣờng – Tống.
46 | PGS.TS. Hồ Sĩ Hiệp
Sau buổi tiếp, Bác đã tặng ông Quách Mạt Nhƣợc tập thơ “Nhật ký
trong tù” vừa xuất bản. Bác đề nghị ông Quách Mạt Nhƣợc đọc và
viết nhận xét. Sau khi về nƣớc, đọc đi đọc lại tập thơ viết bằng chữ
Hán vô giá của Bác làm trên đất Trung Quốc năm xƣa ông Quách Mạt
Nhƣợc đã viết bài đăng trên báo chí Trung Quốc và nhận xét: “Nhật ký
trong tù “không phân biệt đâu là thơ Bác, đâu là thơ Đƣờng – Tống”
và nhà thơ Viên Ƣng không hết lời ca ngợi Bác là “bậc đại trí, đại
nhân và đại dũng”.
HSH
“VĂN DĨ TÂI ĐẠO”
TRONG CÁC TÁC PHẨM ĐƯỜNG THI CÛA HỒ CHÍ MINH
Ths. Đào Tuấn Anh
Bảo tàng Hồ Chí Minh
Khi đề cập đến giá trị của những tác phẩm thi ca Hồ Chí Minh
mang khuynh hƣớng Đƣờng thi đƣợc thể hiện trong tập thơ Nhật ký
trong tù, nhà văn, nhà thơ, Quách Mạt Nhƣợc của Trung Quốc đã
nhận xét: “Nội dung là thổ lộ trực tiếp nỗi niềm tâm sự hoặc phản
ánh những điều thấy trƣớc mắt, hầu hết đều không màu mè, tô vẽ,
mà rõ ràng nhƣ lời nói. Có một số bài rất hay, nếu nhƣ đặt lẫn vào
trong tập thơ của những thi nhân thời Đƣờng đời Tống, thì cũng
khó mà phân biệt đƣợc”1
. Giá trị về mặt văn học nghệ thuật là nhƣ
vậy, nhƣng cũng chính những tác phẩm này còn thể hiện một khía
cạnh khác, đó chính là tôn chỉ, mục đích viết và sáng tác “văn dĩ tải
đạo” của Hồ Chí Minh.
Sinh thời mục đích viết trong suốt cuộc đời Hồ Chí Minh đƣợc
Ngƣời xác định đó là viết cho ai, viết làm gì, viết cái gì và viết nhƣ thế
nào. Vì vậy, trong những tác phẩm báo, thơ, những bài văn chính luận,
Ngƣời đều viết rất ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với trình độ nhận thức
của đa số ngƣời dân Việt Nam, đa phần những tác phẩm thể hiện mục
đích tuyên truyền cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đều “muốn
nói cho vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ. Chắc có ngƣời sẽ chê rằng văn
1
Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ, văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội,
2012, tập 3, tr. 327.
48 | ThS. Đào Tuấn Anh
chƣơng cụt quằn. Vâng! Đây nói việc gì thì nói rất giản tiện, mau
mắn, chắc chắn nhƣ 2 lần 2 là 4, không tô vẽ trang hoàng gì cả”2
,
Với Hồ Chí Minh, Ngƣời nhận thấy:
Thơ xƣa thƣờng chuộng thiên nhiên đẹp,
Mây gió trăng hoa tuyết núi sông.
Nhƣng, ở trong thời kỳ mà cả đất nƣớc đều chịu dƣới ách áp
bức của chủ nghĩa đế quốc, thực dân thì nhà thơ cũng phải đứng lên
chiến đấu, phải dùng ngòi bút của mình để đánh địch trên mặt trận
văn hóa, tƣ tƣởng, vậy nên:
“Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.”
Bởi Ngƣời hiểu rằng “Hơn sáu mƣơi năm nay, đế quốc chủ nghĩa
Pháp đạp trên đầu; hơn hai mƣơi triệu đồng bào hấp hối trong vòng tử
địa. Phải kêu to, làm chóng để cứu lấy giống nòi, thì giờ đâu rảnh mà
vẽ vời trau chuốt!...”3
Thực hiện tôn chỉ, mục đích đó nên đa phần thơ,
văn, báo chí của Ngƣời đều đi vào lòng quần chúng nhân dân nhƣ
những câu ca dao, hò vè, truyền khẩu ngắn gọn, thích ứng với những
đối tƣợng tuyên truyền cụ thể thì có những tác phẩm cụ thể nhƣ: Hòn
đá, Ca sợi chỉ, Con cáo và tổ ong, Ca binh lính,…
Khi trò chuyện với M. Tkát Sốp, dịch giả Liên Xô về mối quan hệ
giữa thơ và chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thẳng thắn chia sẻ:
“Tôi vẫn nghĩ thơ và chính trị không thể tách rời - Ngƣời ngừng một
chút rồi thêm - Còn, có phải thơ chính trị không “cao quý”? Và đó
không phải là loại mà ngƣời làm thơ có thể viết hay? Có phải nhà thơ
không cần làm những bài thơ liên quan đến việc đấu tranh với những
cái xấu? Không, không thể thế đƣợc. Tôi cho rằng, không nghi ngờ gì
cả, cũng nhƣ các ngành nghệ thuật khác, thơ phải gắn bó với sự
nghiệp cách mạng; đó là điều khẳng định. Và những gì đặt ra chung
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 2, tr.283.
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 2, tr.283.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 49
quanh việc này có quan hệ đến nhân cách nhà thơ”4
. Rõ ràng, với Hồ
Chí Minh, thơ và chính trị có một sự gắn kết đặc biệt, thơ ca không
thể xa rời cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân, thi nhân không thể
không thể hiện trách nhiệm trƣớc vận mệnh của nhân dân và của chính
bản thân mình.
Mục đích, tôn chỉ là nhƣ vậy, và trong các sáng tác của mình,
Hồ Chí Minh cũng nghiêm túc thực hiện tinh thần thẳng thắn, ngắn
gọn, cô đọng, súc tích, dễ xem, dễ hiểu, dễ thực hành. Tuy nhiên
trong di sản thơ văn đồ sộ của Hồ Chí Minh không thể không đề
cập tới một hệ thống các tác phẩm mang khuynh hƣớng Đƣờng thi,
vừa có giá trị văn học, nghệ thuật cao, thể hiện trí tuệ, trình độ thơ
văn đạt đến độ mẫu mực của Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là sự
giãi bày những tâm tƣ, tình cảm, quan điểm sáng tác “văn dĩ tải
đạo” của Ngƣời, dùng thơ văn làm phƣơng tiện truyền tải tƣ tƣởng,
suy nghĩ của mình trƣớc thời cuộc.
Sinh ra và lớn lên trên một vùng đất có mạch nguồn văn hóa nổi
bật, lại đƣợc đào tạo những giá trị Hán học ngay từ thủa thiếu thời, vì
vậy những ảnh hƣởng của thi ca Trung Quốc đã sớm thấm đẫm trong
con ngƣời Hồ Chí Minh. Theo GS. TSKH, nhà phê bình lý luận văn
học Phƣơng Lựu: “Có thể nói Bác là một vạch nối vĩ đại giữa chúng
ta, những thế hệ con cháu của Ngƣời, với tất cả những cái gì tốt đẹp:
chân, thiện, mỹ trong cuộc đời và trong lịch sử. Đồng chí Phạm Văn
Đồng có nói, Bác đã Việt Nam hoá cho chúng ta tất cả những cái gì là
tinh hoa của thế giới. Cũng có thể học tập cách nói ấy và thêm rằng
Bác đã hiện đại hóa cho chúng ta những truyền thống tốt đẹp trong
quá khứ dân tộc. Ở một mức độ nhất định, thơ Đƣờng là giao tiếp của
hai mặt đó. Vì thơ Đƣờng là sản phẩm văn hoá của nƣớc láng giềng,
nhƣng đã vốn gắn bó với di sản của ta. Ngƣời ta thƣờng nói đến cái
cốt cách Á Đông, cái phong thái cổ điển ở Bác. Thơ Đƣờng đƣợc sử
4
Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ, văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội,
2012, tập 3, tr. 402.
50 | ThS. Đào Tuấn Anh
dụng và đổi mới trong thơ Bác - chủ yếu là ở trong thơ chữ Hán - mặc
dù ở một góc rất nhỏ, cũng góp phần nói lên cái cốt cách đó, cái phong
thái đó”5
. Tuy vậy, cái chất thơ Đƣờng đó xét cho đến cùng cốt cũng
chỉ để nói lên tinh thần và khí phách con ngƣời cách mạng Hồ Chí
Minh, nói lên nỗi tâm tƣ và khát vọng của một ngƣời muốn đổi thay,
cách mạng để xây dựng nên một thế giới, một đất nƣớc tốt đẹp hơn, vì
vậy, ở khía cạnh nào đó, “nói thơ chữ Hán của Bác chịu ảnh hƣởng của
Đƣờng thi, không bằng nói có sự gặp gỡ giữa phong cách Đƣờng thi
với phong thái của Bác: ung dung, thanh thản, nhƣng kỳ vĩ sâu lắng”6
.
Hồ Chí Minh cũng đồng thời thể hiện rõ là một thi nhân kiệt xuất,
am tƣờng những giá trị văn hóa cổ kim của cả phƣơng Đông và
phƣơng Tây, sự tài tình của Ngƣời là đã lồng ghép những giá trị tinh
tế của văn hóa phƣơng Tây vào các tác phẩm Đƣờng thi phƣơng
Đông. Dịch giả Phan Nhuận, ngƣời đã dịch tác phẩm Nhật ký trong tù
ra tiếng Pháp đã nhận xét khá tinh tế về nội dung hình tƣợng trong hai
bài Cấm hút thuốc lá và Tiết thanh minh nhƣ sau: “Trƣớc một tấm
bảng đề cấm hút thuốc, một tên cai ngục tịch thu thuốc lá của tù nhân.
Để bắt ngƣời ta tôn trọng pháp luật chăng? Không phải, để nhét cho
đầy cái túi thuốc lá của nó. Đây là lối châm biếm Pháp: đòi hỏi, bƣớng
bỉnh. Một tù nhân trƣớc cảnh mƣa phùn không ngớt, giam hãm tâm
hồn trong hàng triệu sợi dây của một mối thất vọng ảo não. Vậy không
nơi nào có lối thoát ƣ? Ngƣời cai ngục chỉ ra lối công đƣờng ở xa. Đó
là nụ cƣời Anh”7
.
Làm đƣợc điều đó, bởi Hồ Chí Minh đã là sự tích hợp các giá trị
văn hóa không chỉ của phƣơng Đông mà còn cả các giá trị văn hóa
phƣơng Tây, bởi khi nghiên cứu và tìm hiểu về các tác phẩm văn học
của nhân loại, Ngƣời “thích đọc Sếch–pia (Shakespeare) và Đích–ken
5
Hồ Chí Minh tác gia, tác phẩm và nghệ thuật ngôn từ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2005,
tr. 479.
6
Hồ Chí Minh tác gia, tác phẩm và nghệ thuật ngôn từ, Sđd, tr. 482.
7
Hồ Chí Minh tác gia, tác phẩm và nghệ thuật ngôn từ, Sđd, tr. 480.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 51
(Dickens) bằng tiếng Anh, Lỗ Tấn bằng tiếng Trung Hoa và Huy Gô
(Hugo), Dôla (Zola) bằng tiếng Pháp”. Ngôn ngữ, đó chính là con
đƣờng tốt nhất mà Hồ Chí Minh đã dùng để mở và đi vào khu vƣờn
văn hóa của các quốc gia, học hỏi và làm giàu cho vốn hiểu biết của
mình, đồng thời từ đó cũng xây dựng và định hình nên một khả năng
độc lập trên cơ sở kế thừa tinh hoa của dân tộc và nhân loại trong
những sáng tác của Ngƣời. Ngƣời có thể làm thơ mang phong cách
Đƣờng thi bởi Ngƣời đã hiểu và làm chủ Đƣờng thi, hiểu và nắm vững
văn hóa Trung Hoa, để từ đó, Ngƣời đã có thể sáng tạo trên cơ sở từ
chính Đƣờng thi.
Ngƣời thực sự trở thành một tác gia lớn của nền văn thơ hiện đại
nƣớc nhà, trong những giá trị thi ca to lớn Hồ Chí Minh để lại, những
tác phẩm Đƣờng thi của Ngƣời thực sự là mẫu mực về thơ văn. Những
thi phẩm của Hồ Chí Minh mặc dù thi liệu vẫn mang tính truyền
thống, nội dung có thể vẫn là những cảnh lƣu luyến khi chia tay, nỗi
niềm xúc động trƣớc phong cảnh đẹp, hay nỗi nhớ bạn hữu, quê
hƣơng của ngƣời thi sĩ đang phải chịu cảnh tha hƣơng,…
“Ngày đi bạn tiễn đến bên sông,
Hẹn bạn về khi lúa đỏ đồng;
Nay gặt đã xong, cày đã khắp,
Quê ngƣời, tôi vẫn chốn lao lung.”
Hay:
“Núi ấp ôm mây, mây ấp núi,
Lòng sông gƣơng sáng, bụi không mờ;
Bồi hồi dạo bƣớc Tây Phong lĩnh,
Trông lại trời Nam, nhớ bạn xƣa.”
Nhƣng hồn trong đó lại thể hiện chí khí của ngƣời cách mạng
hiện đại, tinh thần đấu tranh không mệt mỏi trƣớc những đe dọa từ
thực tế đang phải chịu đựng, và niềm tin sắt đá không gì lay chuyển
nổi của Ngƣời.
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

More Related Content

What's hot

Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfGiao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfMan_Ebook
 
Bai giang ngon ngu hoc doi chieu
Bai giang ngon ngu hoc doi chieuBai giang ngon ngu hoc doi chieu
Bai giang ngon ngu hoc doi chieuCún Con Sữa
 
Kho 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngôn Ngữ Trung Quốc, 9 Điểm Từ Sinh Viên ...
Kho 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngôn Ngữ Trung Quốc, 9 Điểm Từ Sinh Viên ...Kho 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngôn Ngữ Trung Quốc, 9 Điểm Từ Sinh Viên ...
Kho 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngôn Ngữ Trung Quốc, 9 Điểm Từ Sinh Viên ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Trắc nghiệm Tư tưởng HCM
Trắc nghiệm Tư tưởng HCMTrắc nghiệm Tư tưởng HCM
Trắc nghiệm Tư tưởng HCMNgananh Saodem
 
Bài giảng học phần dẫn luận ngôn ngữ học chương trình đại học ngành sư phạm n...
Bài giảng học phần dẫn luận ngôn ngữ học chương trình đại học ngành sư phạm n...Bài giảng học phần dẫn luận ngôn ngữ học chương trình đại học ngành sư phạm n...
Bài giảng học phần dẫn luận ngôn ngữ học chương trình đại học ngành sư phạm n...nataliej4
 
한국어-베트남어 자음 비교(Vietnamese)
한국어-베트남어 자음 비교(Vietnamese)한국어-베트남어 자음 비교(Vietnamese)
한국어-베트남어 자음 비교(Vietnamese)Jae Hee Song
 
DẪN LUẬN NGÔN NGỮ HỌC_TỪ VỰNG
DẪN LUẬN NGÔN NGỮ HỌC_TỪ VỰNG DẪN LUẬN NGÔN NGỮ HỌC_TỪ VỰNG
DẪN LUẬN NGÔN NGỮ HỌC_TỪ VỰNG Lê Thương
 
cấu trúc của ngôn ngữ
cấu trúc của ngôn ngữcấu trúc của ngôn ngữ
cấu trúc của ngôn ngữbig_daisy
 
Các từ ngữ chỉ màu sắc phụ của màu đỏ và xanh trong tiếng việt
Các từ ngữ chỉ màu sắc phụ của màu đỏ và xanh trong tiếng việtCác từ ngữ chỉ màu sắc phụ của màu đỏ và xanh trong tiếng việt
Các từ ngữ chỉ màu sắc phụ của màu đỏ và xanh trong tiếng việtDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
现代汉语与越南语双音节形容词重叠形式 对比研究 = đốI chiếu hình thức lặp lại tính từ song âm tiếng v...
现代汉语与越南语双音节形容词重叠形式 对比研究 = đốI chiếu hình thức lặp lại tính từ song âm tiếng v...现代汉语与越南语双音节形容词重叠形式 对比研究 = đốI chiếu hình thức lặp lại tính từ song âm tiếng v...
现代汉语与越南语双音节形容词重叠形式 对比研究 = đốI chiếu hình thức lặp lại tính từ song âm tiếng v...nataliej4
 
Nghiên cứu dịch thành phần trạng ngữ trong tiếng Hán hiện đại.pdf
Nghiên cứu dịch thành phần trạng ngữ trong tiếng Hán hiện đại.pdfNghiên cứu dịch thành phần trạng ngữ trong tiếng Hán hiện đại.pdf
Nghiên cứu dịch thành phần trạng ngữ trong tiếng Hán hiện đại.pdfHanaTiti
 
DẠY TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ KHAI THÁC ẨN DỤ- HOÁN DỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM N...
DẠY TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ KHAI THÁC ẨN DỤ- HOÁN DỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM N...DẠY TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ KHAI THÁC ẨN DỤ- HOÁN DỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM N...
DẠY TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ KHAI THÁC ẨN DỤ- HOÁN DỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM N...NuioKila
 
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt NamKho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt NamPham Long
 
Câu hỏi và bài tập tiếng việt thực hành
Câu hỏi và bài tập tiếng việt thực hànhCâu hỏi và bài tập tiếng việt thực hành
Câu hỏi và bài tập tiếng việt thực hànhNguyen Cuong
 

What's hot (20)

Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfGiao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
 
THÀNH NGỮ CÓ TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG TIẾNG VIỆT - TẢI FREE...
THÀNH NGỮ CÓ TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG TIẾNG VIỆT  - TẢI FREE...THÀNH NGỮ CÓ TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG TIẾNG VIỆT  - TẢI FREE...
THÀNH NGỮ CÓ TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG TIẾNG VIỆT - TẢI FREE...
 
Bai giang ngon ngu hoc doi chieu
Bai giang ngon ngu hoc doi chieuBai giang ngon ngu hoc doi chieu
Bai giang ngon ngu hoc doi chieu
 
Kho 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngôn Ngữ Trung Quốc, 9 Điểm Từ Sinh Viên ...
Kho 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngôn Ngữ Trung Quốc, 9 Điểm Từ Sinh Viên ...Kho 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngôn Ngữ Trung Quốc, 9 Điểm Từ Sinh Viên ...
Kho 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngôn Ngữ Trung Quốc, 9 Điểm Từ Sinh Viên ...
 
Trắc nghiệm Tư tưởng HCM
Trắc nghiệm Tư tưởng HCMTrắc nghiệm Tư tưởng HCM
Trắc nghiệm Tư tưởng HCM
 
Bài giảng học phần dẫn luận ngôn ngữ học chương trình đại học ngành sư phạm n...
Bài giảng học phần dẫn luận ngôn ngữ học chương trình đại học ngành sư phạm n...Bài giảng học phần dẫn luận ngôn ngữ học chương trình đại học ngành sư phạm n...
Bài giảng học phần dẫn luận ngôn ngữ học chương trình đại học ngành sư phạm n...
 
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên LộcLuận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
Luận văn: Từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc
 
한국어-베트남어 자음 비교(Vietnamese)
한국어-베트남어 자음 비교(Vietnamese)한국어-베트남어 자음 비교(Vietnamese)
한국어-베트남어 자음 비교(Vietnamese)
 
DẪN LUẬN NGÔN NGỮ HỌC_TỪ VỰNG
DẪN LUẬN NGÔN NGỮ HỌC_TỪ VỰNG DẪN LUẬN NGÔN NGỮ HỌC_TỪ VỰNG
DẪN LUẬN NGÔN NGỮ HỌC_TỪ VỰNG
 
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAYĐặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
Đặc trưng nghệ thuật Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung đại, HAY
 
cấu trúc của ngôn ngữ
cấu trúc của ngôn ngữcấu trúc của ngôn ngữ
cấu trúc của ngôn ngữ
 
Các từ ngữ chỉ màu sắc phụ của màu đỏ và xanh trong tiếng việt
Các từ ngữ chỉ màu sắc phụ của màu đỏ và xanh trong tiếng việtCác từ ngữ chỉ màu sắc phụ của màu đỏ và xanh trong tiếng việt
Các từ ngữ chỉ màu sắc phụ của màu đỏ và xanh trong tiếng việt
 
现代汉语与越南语双音节形容词重叠形式 对比研究 = đốI chiếu hình thức lặp lại tính từ song âm tiếng v...
现代汉语与越南语双音节形容词重叠形式 对比研究 = đốI chiếu hình thức lặp lại tính từ song âm tiếng v...现代汉语与越南语双音节形容词重叠形式 对比研究 = đốI chiếu hình thức lặp lại tính từ song âm tiếng v...
现代汉语与越南语双音节形容词重叠形式 对比研究 = đốI chiếu hình thức lặp lại tính từ song âm tiếng v...
 
Nghiên cứu dịch thành phần trạng ngữ trong tiếng Hán hiện đại.pdf
Nghiên cứu dịch thành phần trạng ngữ trong tiếng Hán hiện đại.pdfNghiên cứu dịch thành phần trạng ngữ trong tiếng Hán hiện đại.pdf
Nghiên cứu dịch thành phần trạng ngữ trong tiếng Hán hiện đại.pdf
 
DẠY TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ KHAI THÁC ẨN DỤ- HOÁN DỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM N...
DẠY TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ KHAI THÁC ẨN DỤ- HOÁN DỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM N...DẠY TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ KHAI THÁC ẨN DỤ- HOÁN DỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM N...
DẠY TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ KHAI THÁC ẨN DỤ- HOÁN DỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM N...
 
Luận văn: Nghiên cứu đối chiếu thành ngữ Hàn – việt có yếu tố chỉ tên gọi độn...
Luận văn: Nghiên cứu đối chiếu thành ngữ Hàn – việt có yếu tố chỉ tên gọi độn...Luận văn: Nghiên cứu đối chiếu thành ngữ Hàn – việt có yếu tố chỉ tên gọi độn...
Luận văn: Nghiên cứu đối chiếu thành ngữ Hàn – việt có yếu tố chỉ tên gọi độn...
 
Luận án: Giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong hoạt động VOV
Luận án: Giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong hoạt động VOVLuận án: Giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong hoạt động VOV
Luận án: Giao lưu văn hóa Việt Nam-Nhật Bản trong hoạt động VOV
 
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đLuận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
 
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt NamKho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam
 
Câu hỏi và bài tập tiếng việt thực hành
Câu hỏi và bài tập tiếng việt thực hànhCâu hỏi và bài tập tiếng việt thực hành
Câu hỏi và bài tập tiếng việt thực hành
 

Similar to Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfHanaTiti
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM nataliej4
 
Xuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩmXuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩmjackjohn45
 
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNuioKila
 
Dong Kinh Nghia Thuc
Dong Kinh Nghia ThucDong Kinh Nghia Thuc
Dong Kinh Nghia ThucVũ Hiếu
 
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồngTh s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồnghttps://www.facebook.com/garmentspace
 
Notebook Lesson _ by Slidesgo.pptx
Notebook Lesson _ by Slidesgo.pptxNotebook Lesson _ by Slidesgo.pptx
Notebook Lesson _ by Slidesgo.pptxNguynHiu415274
 
Giáo trình văn học dân gian-đã nén.pdf
Giáo trình văn học dân gian-đã nén.pdfGiáo trình văn học dân gian-đã nén.pdf
Giáo trình văn học dân gian-đã nén.pdfNguynNgcMai33
 
Tỉnh Thanh Hóa - CHARLES ROBEQUAIN, 1929.pdf
Tỉnh Thanh Hóa - CHARLES ROBEQUAIN, 1929.pdfTỉnh Thanh Hóa - CHARLES ROBEQUAIN, 1929.pdf
Tỉnh Thanh Hóa - CHARLES ROBEQUAIN, 1929.pdfXuandia Nguyen
 
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfNgôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfHanaTiti
 
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gianSkkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân giannataliej4
 
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG.pdf
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG.pdfAI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG.pdf
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG.pdfngTrang74
 
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260nataliej4
 
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánhđặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánhKelsi Luist
 
Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.ssuser499fca
 
Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.ssuser499fca
 
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI nataliej4
 

Similar to Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam (20)

NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
 
Xuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩmXuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩm
 
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
 
Dong Kinh Nghia Thuc
Dong Kinh Nghia ThucDong Kinh Nghia Thuc
Dong Kinh Nghia Thuc
 
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh TháiĐặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
 
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồngTh s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
 
Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...
Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...
Đề tài: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ thuộc phong...
 
Notebook Lesson _ by Slidesgo.pptx
Notebook Lesson _ by Slidesgo.pptxNotebook Lesson _ by Slidesgo.pptx
Notebook Lesson _ by Slidesgo.pptx
 
Giáo trình văn học dân gian-đã nén.pdf
Giáo trình văn học dân gian-đã nén.pdfGiáo trình văn học dân gian-đã nén.pdf
Giáo trình văn học dân gian-đã nén.pdf
 
Tỉnh Thanh Hóa - CHARLES ROBEQUAIN, 1929.pdf
Tỉnh Thanh Hóa - CHARLES ROBEQUAIN, 1929.pdfTỉnh Thanh Hóa - CHARLES ROBEQUAIN, 1929.pdf
Tỉnh Thanh Hóa - CHARLES ROBEQUAIN, 1929.pdf
 
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfNgôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
 
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gianSkkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
Skkn dạy tác phẩm văn học dân gian trong mối quan hệ với văn hóa dân gian
 
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG.pdf
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG.pdfAI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG.pdf
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG.pdf
 
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
KHÁT VỌNG NỮ QUYỀN TRONG THƠ VI THÙY LINH 2827260
 
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánhđặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
đặC điểm tiểu thuyết hồ biểu chánh
 
Khóa luận: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ, HAY
Khóa luận: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ, HAYKhóa luận: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ, HAY
Khóa luận: Yếu tố văn hóa dân gian trong sáng tác của một số nhà thơ, HAY
 
Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.
 
Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.
 
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
 

More from Pham Long

Lễ hội Trò nhại Nõ Nường (Trò Trám)
Lễ hội Trò nhại Nõ Nường   (Trò Trám)Lễ hội Trò nhại Nõ Nường   (Trò Trám)
Lễ hội Trò nhại Nõ Nường (Trò Trám)Pham Long
 
Giám đốc của chúng tôi
Giám đốc của chúng tôiGiám đốc của chúng tôi
Giám đốc của chúng tôiPham Long
 
Giáo sư Hoàng Chương
Giáo sư Hoàng ChươngGiáo sư Hoàng Chương
Giáo sư Hoàng ChươngPham Long
 
Nghị định số 109/2017/NĐ-CP
 Nghị định số 109/2017/NĐ-CP  Nghị định số 109/2017/NĐ-CP
Nghị định số 109/2017/NĐ-CP Pham Long
 
Bàn về 12 luận điểm trống đồng
Bàn về 12 luận điểm trống đồngBàn về 12 luận điểm trống đồng
Bàn về 12 luận điểm trống đồngPham Long
 
Du khảo hoa kỳ sau thảm họa 11 tháng 9
Du khảo hoa kỳ sau thảm họa 11 tháng 9Du khảo hoa kỳ sau thảm họa 11 tháng 9
Du khảo hoa kỳ sau thảm họa 11 tháng 9Pham Long
 
Thanh Hương, Chính khách, Nhà viết kịch
Thanh Hương, Chính khách, Nhà viết kịchThanh Hương, Chính khách, Nhà viết kịch
Thanh Hương, Chính khách, Nhà viết kịchPham Long
 
GIÃ TỪ- Tiểu thuyết -PHẠM VIỆT LONG
GIÃ TỪ- Tiểu thuyết -PHẠM VIỆT LONGGIÃ TỪ- Tiểu thuyết -PHẠM VIỆT LONG
GIÃ TỪ- Tiểu thuyết -PHẠM VIỆT LONGPham Long
 
BÊ TRỌC _ Tập 3 _ Phạm Việt Long
BÊ TRỌC _ Tập 3 _ Phạm Việt LongBÊ TRỌC _ Tập 3 _ Phạm Việt Long
BÊ TRỌC _ Tập 3 _ Phạm Việt LongPham Long
 
BÊ TRỌC - Tập 2 - PHẠM VIỆT LONG
BÊ TRỌC - Tập 2 - PHẠM VIỆT LONGBÊ TRỌC - Tập 2 - PHẠM VIỆT LONG
BÊ TRỌC - Tập 2 - PHẠM VIỆT LONGPham Long
 
BÊ TRỌC - PHẠM VIỆT LONG - Tập1
BÊ TRỌC - PHẠM VIỆT LONG - Tập1BÊ TRỌC - PHẠM VIỆT LONG - Tập1
BÊ TRỌC - PHẠM VIỆT LONG - Tập1Pham Long
 
HƯƠNG ƯỚC HÀ NỘI - MỘT DI SẢN VĂN HOÁ - Trương Sỹ Hùng
HƯƠNG ƯỚC HÀ NỘI - MỘT DI SẢN VĂN HOÁ - Trương Sỹ HùngHƯƠNG ƯỚC HÀ NỘI - MỘT DI SẢN VĂN HOÁ - Trương Sỹ Hùng
HƯƠNG ƯỚC HÀ NỘI - MỘT DI SẢN VĂN HOÁ - Trương Sỹ HùngPham Long
 
THÁI TỔ MẠC ĐĂNG DUNG
THÁI TỔ MẠC ĐĂNG DUNGTHÁI TỔ MẠC ĐĂNG DUNG
THÁI TỔ MẠC ĐĂNG DUNGPham Long
 
Vì sao nông dân Đà Lạt co thu nhập cao
Vì sao nông dân Đà Lạt co thu nhập caoVì sao nông dân Đà Lạt co thu nhập cao
Vì sao nông dân Đà Lạt co thu nhập caoPham Long
 
Tranh thiếu nhi về vhgt năm 2016 được giải
Tranh thiếu nhi về vhgt năm 2016 được giảiTranh thiếu nhi về vhgt năm 2016 được giải
Tranh thiếu nhi về vhgt năm 2016 được giảiPham Long
 
Chiều Thơ đoàn huy cảnh
Chiều   Thơ đoàn huy cảnhChiều   Thơ đoàn huy cảnh
Chiều Thơ đoàn huy cảnhPham Long
 
Lễ hội Bát Hải Long vương
Lễ hội Bát Hải Long vươngLễ hội Bát Hải Long vương
Lễ hội Bát Hải Long vươngPham Long
 
Thơ Đường đất Việt
Thơ Đường đất ViệtThơ Đường đất Việt
Thơ Đường đất ViệtPham Long
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao, du lịch - Số 1193 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao, du lịch - Số 1193 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao, du lịch - Số 1193 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao, du lịch - Số 1193 - vanhien.vnPham Long
 
Người thầy đầu tiên
Người thầy đầu tiênNgười thầy đầu tiên
Người thầy đầu tiênPham Long
 

More from Pham Long (20)

Lễ hội Trò nhại Nõ Nường (Trò Trám)
Lễ hội Trò nhại Nõ Nường   (Trò Trám)Lễ hội Trò nhại Nõ Nường   (Trò Trám)
Lễ hội Trò nhại Nõ Nường (Trò Trám)
 
Giám đốc của chúng tôi
Giám đốc của chúng tôiGiám đốc của chúng tôi
Giám đốc của chúng tôi
 
Giáo sư Hoàng Chương
Giáo sư Hoàng ChươngGiáo sư Hoàng Chương
Giáo sư Hoàng Chương
 
Nghị định số 109/2017/NĐ-CP
 Nghị định số 109/2017/NĐ-CP  Nghị định số 109/2017/NĐ-CP
Nghị định số 109/2017/NĐ-CP
 
Bàn về 12 luận điểm trống đồng
Bàn về 12 luận điểm trống đồngBàn về 12 luận điểm trống đồng
Bàn về 12 luận điểm trống đồng
 
Du khảo hoa kỳ sau thảm họa 11 tháng 9
Du khảo hoa kỳ sau thảm họa 11 tháng 9Du khảo hoa kỳ sau thảm họa 11 tháng 9
Du khảo hoa kỳ sau thảm họa 11 tháng 9
 
Thanh Hương, Chính khách, Nhà viết kịch
Thanh Hương, Chính khách, Nhà viết kịchThanh Hương, Chính khách, Nhà viết kịch
Thanh Hương, Chính khách, Nhà viết kịch
 
GIÃ TỪ- Tiểu thuyết -PHẠM VIỆT LONG
GIÃ TỪ- Tiểu thuyết -PHẠM VIỆT LONGGIÃ TỪ- Tiểu thuyết -PHẠM VIỆT LONG
GIÃ TỪ- Tiểu thuyết -PHẠM VIỆT LONG
 
BÊ TRỌC _ Tập 3 _ Phạm Việt Long
BÊ TRỌC _ Tập 3 _ Phạm Việt LongBÊ TRỌC _ Tập 3 _ Phạm Việt Long
BÊ TRỌC _ Tập 3 _ Phạm Việt Long
 
BÊ TRỌC - Tập 2 - PHẠM VIỆT LONG
BÊ TRỌC - Tập 2 - PHẠM VIỆT LONGBÊ TRỌC - Tập 2 - PHẠM VIỆT LONG
BÊ TRỌC - Tập 2 - PHẠM VIỆT LONG
 
BÊ TRỌC - PHẠM VIỆT LONG - Tập1
BÊ TRỌC - PHẠM VIỆT LONG - Tập1BÊ TRỌC - PHẠM VIỆT LONG - Tập1
BÊ TRỌC - PHẠM VIỆT LONG - Tập1
 
HƯƠNG ƯỚC HÀ NỘI - MỘT DI SẢN VĂN HOÁ - Trương Sỹ Hùng
HƯƠNG ƯỚC HÀ NỘI - MỘT DI SẢN VĂN HOÁ - Trương Sỹ HùngHƯƠNG ƯỚC HÀ NỘI - MỘT DI SẢN VĂN HOÁ - Trương Sỹ Hùng
HƯƠNG ƯỚC HÀ NỘI - MỘT DI SẢN VĂN HOÁ - Trương Sỹ Hùng
 
THÁI TỔ MẠC ĐĂNG DUNG
THÁI TỔ MẠC ĐĂNG DUNGTHÁI TỔ MẠC ĐĂNG DUNG
THÁI TỔ MẠC ĐĂNG DUNG
 
Vì sao nông dân Đà Lạt co thu nhập cao
Vì sao nông dân Đà Lạt co thu nhập caoVì sao nông dân Đà Lạt co thu nhập cao
Vì sao nông dân Đà Lạt co thu nhập cao
 
Tranh thiếu nhi về vhgt năm 2016 được giải
Tranh thiếu nhi về vhgt năm 2016 được giảiTranh thiếu nhi về vhgt năm 2016 được giải
Tranh thiếu nhi về vhgt năm 2016 được giải
 
Chiều Thơ đoàn huy cảnh
Chiều   Thơ đoàn huy cảnhChiều   Thơ đoàn huy cảnh
Chiều Thơ đoàn huy cảnh
 
Lễ hội Bát Hải Long vương
Lễ hội Bát Hải Long vươngLễ hội Bát Hải Long vương
Lễ hội Bát Hải Long vương
 
Thơ Đường đất Việt
Thơ Đường đất ViệtThơ Đường đất Việt
Thơ Đường đất Việt
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao, du lịch - Số 1193 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao, du lịch - Số 1193 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao, du lịch - Số 1193 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao, du lịch - Số 1193 - vanhien.vn
 
Người thầy đầu tiên
Người thầy đầu tiênNgười thầy đầu tiên
Người thầy đầu tiên
 

Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt Nam

  • 1. Bác Hồ với thơ Đƣờng luật
  • 2.
  • 3. TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY VĂN HOÁ DÂN TỘC VIỆT NAM HỘI THƠ ĐƢỜNG LUẬT VIỆT NAM KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN HÀ NỘI - 2016
  • 4.
  • 5. LỜI THƯA Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Văn hoá cũng là một mặt trận”. Chính vì vậy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình Ngƣời đã sử dụng khá nhiều bài viết bằng các thể loại thơ để hƣớng dẫn, chỉ bảo và động viên mọi tầng lớp nhân dân cùng đoàn kết đấu tranh trong công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng đất nƣớc, trong đó có nhiều bài đƣợc viết bằng thể thơ Đƣờng luật. Nhân kỷ niệm 125 năm ngày sinh của Ngƣời; Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và Phát huy Văn hoá dân tộc Việt Nam, phối hợp với Bảo tàng Hồ Chí Minh và Hội thơ Đƣờng luật Việt Nam tổ chức thành công Hội thảo khoa học “Bác Hồ với thơ Đƣờng luật Việt Nam”. Với trên 50 bản tham luận công phu và nghiêm túc, các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà thơ đã cùng nhau tìm hiểu mối quan hệ giữa Bác Hồ với thơ Đƣờng luật. Không chỉ nhằm tôn vinh tài thơ lớn, tƣ tƣởng tình cảm cao đẹp của Bác Hồ mà qua đó còn thấy đƣợc cách mà Ngƣời đã Việt Nam hoá thành công một di sản
  • 6. 6 | Lời thƣa văn hoá nổi tiếng của nhân loại thành di sản văn hoá mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam; một thứ vũ khí phục vụ đắc lực cho sự nghiệp giữ nƣớc và dựng nƣớc của nhân dân ta. Trong một hội nghị khoa học có thể có những ý kiến khác nhau hay những luận điểm trùng nhau. Tuy vậy, Ban tuyển chọn đã tiếp nhận đƣợc rất nhiều thông tin thú vị, rất có ý nghĩa về cuộc đời cũng nhƣ thơ Bác; Là tài sản quý giá cho mọi tầng lớp nhân dân nói chung và cho những ngƣời yêu thơ Đƣờng luật nói riêng có điều kiện chiêm nghiệm, suy ngẫm và học tập. Vì điều kiện khuân khổ cuốn sách có hạn, Ban tuyển chọn xin phép chỉ giới thiệu một số bài viết làm ví dụ, có lẽ còn phải tiếp tục nghiên cứu và trao đổi thêm. Để có đƣợc những tài liệu quý giá mang tính học thuật và giàu chất nhân văn trong công cuộc Nghiên cứu bảo tồn và Phát huy văn hoá dân tộc. Hội thơ Đƣờng luật Việt Nam sẽ tiếp tục tổ chức các cuộc Hội thảo khoa học về các danh nhân văn hoá dân tộc sẽ trân trọng kính mời các nhà nghiên cứu, các vị học giả cùng tham gia. Trân trọng. BAN TUYỂN CHỌN
  • 7. Đề dẫn: HỘI THÂO BÁC HỒ VỚI THƠ ĐƯỜNG LUẬT GS Hoàng Chƣơng Tổng giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn & Phát huy Văn hóaDân tộc Việt Nam Trong tác phẩm Văn hóa và đổi mới, cố Thủ tƣớng Phạm Văn Đồng từng nhận xét: Một trong những tính trội của văn hóa Việt Nam là khả năng tiếp nhận những cái hay, cái đẹp của các nền văn hóa khác, không kể đến bất cứ từ đâu, để làm giàu cho mình. Thơ Đƣờng luật Việt Nam là một bằng chứng hùng hồn cho nhận xét minh triết đó. Từ một thể thơ cổ của dân tộc láng giềng Trung Hoa, qua quá trình tiếp biến văn hóa, dân ta đã biến Thơ Đƣờng luật trở thành một công cụ hữu hiệu phản ánh trí tuệ Việt Nam, tâm hồn Việt Nam, một thứ vũ khí sắc bén chống lại dã tâm xâm lƣợc cũng nhƣ đồng hóa của những kẻ bá quyền trong cái dân tộc đã sản sinh ra nó. Và một trong những con ngƣời Việt Nam tiêu biểu nhất góp phần biến Thơ Đƣờng luật thành một thể thơ truyền thống Việt Nam là Bác Hồ vĩ đại của chúng ta. Hôm nay chúng ta hội tụ về Bảo tàng Hồ Chí Minh lịch sử thực hiện Hội thảo mang tên “Bác Hồ với thơ Đƣờng luật Việt Nam” do Trung tâm nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam phối hợp với Bảo tàng Hồ Chí Minh và Hội thơ Đƣờng luật Việt Nam tổ chức. Thay mặt Ban tổ chức, tôi nhiệt liệt chào mừng các vị đại biểu, chào mừng các nhà khoa học, nhà thơ, hội viên Hội thơ Đƣờng
  • 8. 8 | GS Hoàng Chƣơng luật Việt Nam đã gửi đến Hội thảo hơn 50 bản tham luận công phu, nghiêm túc. Mặc dù đã có hàng trăm bài viết về tập thơ “Nhật ký trong tù” và nhiều bài thơ viết bằng thơ Đƣờng luật theo thể thơ tiêu biểu là thất ngôn bát cú hay thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú, ngũ ngôn tứ tuyệt của Bác Hồ trên nhiều quyển sách, tờ báo trong nhiều thập kỷ qua, nhƣng dƣờng nhƣ chƣa có một Hội thảo khoa học chuyên đề về nội dung: “Bác Hồ với thơ Đƣờng luật”. Đây cúng là một trong những hoạt động thiết thực kỷ niệm 125 ngày sinh của Hồ Chủ Tịch, đồng thời nhằm thiết thực hƣởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh. Tìm hiểu mối quan hệ giữa Bác Hồ với thơ Đƣờng luật, không chỉ nhằm tôn vinh tài thơ lớn, tƣ tƣởng tình cảm cao đẹp của Bác Hồ mà qua đó chúng ta còn tìm hiểu đƣợc cách mà Ngƣời Việt Nam hóa thành công một di sản nổi tiếng của dân tộc Trung Hoa, biến nó thành một di sản văn hóa đậm bản sắc văn hóa Việt Nam, một thứ vũ khí phục vụ đắc lực cho sự nghiệp giữ nƣớc và dựng nƣớc Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử. Nói đến đề tài “Bác Hồ với thơ Đƣờng luật”, trƣớc hết là chúng ta nghĩ ngay đến tập thơ “Nhật ký trong tù”. Đây là tập thơ nổi tiếng của Bác với 133 bài thơ Đƣờng luật viết hoàn toàn bằng chữ Hán đƣợc chính ngƣời Trung Quốc đánh giá đã đạt đến tầm cao và chiều sâu của một thứ thơ Đƣờng luật chính hiệu. Bởi thế “Nhật ký trong tù” không những đƣợc ngƣời Việt Nam, ngƣời Trung Quốc ƣa thích mà độc giả nhiều nƣớc khác trên thế giới cũng ƣa thích. Theo tôi đƣợc biết đã có gần 10 nƣớc dịch và phát hành tập thơ “Nhật ký trong tù” của Hồ Chủ Tịch. Tôi có may mắn đƣợc trực tiếp tham gia tổ chức và chủ trì Hội thảo Nhật ký trong tù tại Rumani vào giữa tháng 8 năm 2005. Dịch giả tập thơ này ra tiếng Rumani là nhà văn Constantin Lupeanu đã từng là Đại sứ tại Việt Nam và Phó đại sứ tại Trung Quốc, ông đã dịch trực tiếp tập thơ của Bác Hồ từ nguyên bản chữ Hán ra chữ Rumani. Một điều rất đỗi ngạc nhiên là các nhà văn Rumani đã cảm nhận đƣợc hình thức thơ Đƣờng và nội dung sâu
  • 9. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 9 sắc trong tập Nhật ký trong tù của Hồ Chủ Tịch. Có lẽ những ngƣời Châu Âu khác và những ngƣời Châu Mỹ la tinh cũng tiếp nhận Nhật ký trong tù của Bác Hồ nhƣ vậy. Chủ tịch Hội nhà văn Rumani nói: Hồ Chí Minh nhƣ hoa sen từ bùn đất vƣơn lên. Xin trích đọc hai bài ngắn trong Nhật ký trong tù đã dịch sang tiếng Rumani: Bài Nghe tiếng giã gạo Sunetul Decorticaru/0rezului Cindedecorticat, orezul Dar/dupa acea/bobul e ca bumbacul de/alb Asa e si omul in lumea asta mare Necazul il pefae jad de valoare Dịch: Gạo đem vào giã bao đau đớn Gạo giã xong rồi trắng tựa bông Sống ở trên đời ngƣời cũng vậy Gian nan rèn luyện mới thành công Bài: Nửa đêm: Ngủ thì ai cũng nhƣ lƣơng thiện Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền Hiền dữ đâu phải là tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà nên Dịch: Miez de noapte Sunt toti bawrrbati curati Sibuni in somn Cint se trezessc, se-mpart in răi si buni Ei nu prin nastere sunt răi si buni Totul, tine de educatia pentru om Không những tại Rumani, tại Liên Xô và các nƣớc Đông Âu cũ cũng nhƣ tại Tây Âu, Châu phi, Cu Ba và Châu mỹ la tinh, tập Nhật ký trong tù cũng đƣợc nhiều ngƣời ƣa thích. Dù đƣợc viết bằng chữ
  • 10. 10 | GS Hoàng Chƣơng Hán, trong hình thức một thể thơ vốn của dân tộc Trung Hoa, nhƣng không ai nghĩ nó là sản phẩm của văn hóa Trung Hoa, mà là sản phẩm đặc sắc của văn hóa Việt Nam, của một trong những con ngƣời Việt Nam tiêu biểu nhất, một trong những nhân cách Việt Nam đẹp và hấp dẫn nhất. Đó là tập Nhật ký trong tù với bạn đọc thế giới, còn đối với ngƣời Việt Nam chúng ta, Nhật ký trong tù là một trong những tác phẩm văn học đƣợc quan tâm nhiều nhất, đƣợc tìm đọc rộng rãi nhất, mặc dù phần lớn ngƣời đọc phải thƣởng thức tác phẩm qua các bản dịch. “Nhật ký trong tù” còn đƣợc nhà soạn chèo Trần Đình Ngôn chuyển lên sân khấu chèo với tên gọi “Những vần thơ thép” và Nhà hát chèo Việt Nam đã diễn rất thành công. Vở chèo đã đƣợc nhiều vị lãnh đạo của Đảng, Nhà nƣớc và nhân ta rất yêu thích. Rõ ràng “Nhật ký trong tù” đã trở thành một hiện tƣợng văn học thú vị, thậm chí bí ẩn, khó giải thích nổi vì sao khi một lãnh tụ cách mạng Việt Nam nhƣ Hồ Chủ Tịch lại rất thành công trong thể thơ Đƣờng luật, một thể loại văn học bác học có niêm luật rất chặt chẽ, rất khắt khe và ngôn từ cực kỳ chau chuốt của ngƣời Trung Hoa. nhà thơ, nhà soạn kịch Quách Mạt Nhƣợc, một nhà văn hóa lớn của Trung Quốc cho rằng tập thơ “Nhật ký trong tù” là một đỉnh cao của Đƣờng thi hiện đại, trong đó có một số bài thơ rất hay, nếu nhƣ đặt lẫn vào trong tập thơ của những thi nhân cự phách đời Đƣờng, đời Tống thì cũng khó phân biệt đƣợc. Để giải thích điều này, chúng ta cần nhìn lại về quá khứ để thấy đƣợc nền tảng văn hóa tinh thần của Bác Hồ. Khi còn là cậu bé Nguyễn Sinh Cung, Bác đã đƣợc cha là nhà Hán học Nguyễn Sinh Sắc trau dồi cho nhiều kiến thức về văn hóa Trung Hoa và Đƣờng thi cùng với kiến thức và tình yêu văn hóa Việt Nam và thi ca Việt Nam. Bác lại đƣợc nhà thơ lớn, nhà soạn tuồng lớn của dân tộc là Đào Tấn yêu mến và dìu dắt. Vốn Hán học và vốn văn hóa dân tộc hòa
  • 11. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 11 nhuyễn trong tâm hồn Bác Hồ từ thời thơ ấu và tuổi thanh niên là nền tảng văn hóa, là hành trang văn hóa trên con đƣờng Cách mạng của Bác, giúp Bác dù có tiếp xúc, có chịu ảnh hƣởng văn hóa Âu, Mỹ, nhƣng văn hóa dân tộc, trong đó có vốn Đƣờng thi vẫn hiện hữu và đã tỏa sáng trong thơ ca của Bác. Cũng nhƣ Nguyễn Du, Đào Tấn… đã Việt Nam hóa hoàn toàn văn học cổ của Trung Hoa, thơ Đƣờng luật của Hồ Chủ Tịch đƣợc thể hiện theo nhịp điệu và màu sắc Việt Nam, mang tƣ tƣởng, tâm hồn Việt Nam, dù là các bài thơ nổi tiếng trong “Nhật ký trong tù” hay các bài thơ đƣợc làm sau này, tiêu biểu nhƣ bài thơ tứ tuyệt Nguyên tiêu viết bằng chữ Hán đã đƣợc dùng làm đề từ cho đêm thơ Nguyên tiêu độc đáo trên toàn cõi Việt Nam thống nhất: Kim dạ Nguyên tiêu nguyệt chính viên Xuân giang, xuân thủy, tiếp xuân thiên Yên ba thâm xứ đàm quân sự Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền Hoặc bài ngũ ngôn tứ tuyệt nhƣ lời ứng khẩu bằng tiếng Việt, kêu gọi thế hệ trẻ vững chí bền lòng trong lao động sáng tạo vì đất nƣớc: Không có việc gì khó Chỉ sợ lòng không bền Đào núi và nấp biển Quyết chí cũng làm nên Hồ Chủ Tịch đúng là nhà thơ lỗi lạc trong lĩnh vực Đƣờng thi ở Việt Nam đƣợc cả thế giới biết đến và tôn vinh. Mới đây nhất, tháng 10 năm 2015, nƣớc Anbani lại công bố bản dịch tập “Nhật ký trong tù” và có lẽ tập thơ này sẽ còn tiếp tục đƣợc dịch ở những nƣớc khác. Trên đây chúng tôi điểm vài nét sơ lƣợc về thơ Đƣờng luật của Bác Hồ, coi nhƣ gợi mở để các nhà nghiên cứu tiếp tục bàn sâu hơn:
  • 12. 12 | GS Hoàng Chƣơng chúng ta sẽ đi sâu phân tích việc Bác Hồ học tập, tiếp thu thơ Đƣờng luật, sử dụng nó nhƣ một thứ vũ khí trong hoạt động Cách mạng của ngƣời, kết nối nó với tâm hồn Việt Nam, văn hóa Việt Nam, để biến nó trở hành một thứ di sản đậm bản sắc Việt Nam. Chúng ta hoàn toàn có thể tự hào nói rằng, với Bác, thơ Đƣờng luật đã Việt hóa thành công, đã trở thành một di sản văn hóa của dân tộc Việt Nam. Ban tổ chức Hội thảo rất vui mừng khi thấy nhiều tham luận rất hay, rất sâu sắc của quý vị đã in trong tập tƣ liệu Hội thảo. Xin cảm ơn quý vị đã nhiệt tình tham gia Hội thảo. Chúc Hội thảo thành công. Hà Nội, 23/10/2015
  • 13. THƠ ĐƯỜNG LUẬT CÛA HỒ CHÍ MINH TRONG “NHẬT KÝ TRONG TÙ” GS – AHLĐ - Vũ Khiêu Tôi hoan nghênh sáng kiến của Giáo sƣ Hoàng Chƣơng qua việc tổ chức cuộc Hội thảo về Bác Hồ với thơ Đƣờng luật. Trong thời gian ở trong nƣớc, Bác Hồ đã làm nhiều bài thơ giản dị để chúc nhân dân ta trong dịp Tết Nguyên đán và nhiều câu thơ, bài thơ động viên nhân dân ta lao động và chiến đấu. Những bài thơ đó ít nói về bản thân Bác. Muốn hiểu đƣợc những cảm xúc sâu sắc và những suy tƣ thầm lặng của Bác thì phải tìm tới những bài thơ mà Bác đã ghi lại nhƣ những mẩu nhật ký của bản thân mình. Chúng ta đã không đƣợc thấy rõ, nếu nhƣ các đồng chí lãnh đạo ở bên cạnh Ngƣời không tha thiết yêu cầu Bác cho phổ biến tập Nhật ký trong tù. Trong cuộc Hội thảo hôm nay, tôi xin phép đƣợc phát biểu đôi điều cảm nghĩ của bản thân tôi sau khi đọc những bài thơ Đƣờng luật của Bác. Bác khiêm tốn chỉ cho mình là ngƣời ghi nhật ký chứ chẳng phải làm thơ nhƣng nhật ký ấy lại viết theo một thể loại khó nhất là thơ Đƣờng. Theo Quách Mạt Nhƣợc, nhiều bài trong đó có thể xếp ngang những bài thơ Đƣờng hay nhất. Thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh đƣợc dịch ra tiếng Việt. Các bản dịch dù chƣa thể hay bằng nguyên tác, nhƣng đã ngọt ngào nhƣ tiếng hát dân gian, thanh cao nhƣ cốt cách dân tộc.
  • 14. 14 | GS – AHLĐ – Vũ Khiêu Thành công ấy là sản phẩm của bao công phu bền bỉ trong nhận thức cuộc sống và trau dồi nghệ thuật. Nó bắt nguồn từ những bài giặm Nghệ Tĩnh, những bài hát dân ca hay nhất, đã sớm cùng với lời ru và sữa mẹ rót vào tâm hồn ấu thơ của Hồ Chí Minh. Không phải Hồ Chí Minh ở trong tù mới biết đến thơ Đƣờng qua tập Thiên gia thi. Ngay từ những ngày còn nhỏ, sống bên cha, Ngƣời đã nghe cha và bè bạn của cha hàng ngày đọc thơ và làm thơ. Ngƣời đã thuộc lòng không ít những bài thơ của Trung Quốc và Việt Nam. Không chỉ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Thức mà còn Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm… đã để lại trong tâm hồn Ngƣời những cảm hứng thi ca đẹp nhất. Từ ngày ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc (1911), Hồ Chí Minh đi vào thế giới bao la của văn học thế giới, nhất là văn học phƣơng Tây. Qua đó, Ngƣời tiếp thu đƣợc sự uyên bác về kiến thức, sự trong sáng trong hành văn, sự tinh tế trong thể hiện. Không có quá trình công phu tích lũy và rèn luyện ấy, thì không dễ dàng có đƣợc một tập thơ cao cả về tƣ tƣởng và trau chuốt về nghệ thuật nhƣ Nhật ký trong tù. 1. Xiềng xích và tự do Nhà tù đã đặt Hồ Chí Minh trƣớc một hoàn cảnh chiến đấu mới. Một trận cuồng phong đã “cản ngƣợc cánh chim bằng” và con ngƣời tự do đã sa vào xiềng xích. Trong cái nhà tù man rợ này, mọi xiềng xích đã đƣa ra để trói buộc một con ngƣời, nhất đây lại là con ngƣời đã suốt đời lấy tự do làm lẽ sống, suốt đời chiến đấu nhằm đập tan mọi xiềng xích cho cả nhân loại và cho mỗi con ngƣời. Sự vật lộn giữa tự do và xiềng xích lại diễn ra trong một hoàn cảnh đầy những điều ngang trái và từ đó nó đã tạo nên những nét tƣơng phản tô đậm thêm sự cao cả của tự do và sự tàn bạo của xiềng xích. Hồ Chí Minh - con ngƣời đã thống nhất ở bản thân những tinh
  • 15. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 15 hoa của cả nhà thơ và nhà cách mạng - đến nay lại tự phân đôi thành thân thể và tinh thần. Thân thể ở trong lao Tinh thần ở ngoài lao … Thân thể này, chúng có thể hành hạ nhƣng tinh thần này thì không gì khuất phục nổi: Nghĩ mình trong lúc gian truân, Tai ƣơng rèn luyện tinh thần thêm hăng. Với tinh thần ấy, Hồ Chí Minh biến tai ƣơng thành môi trƣờng rèn luyện. Cƣờng bạo của nhà tù càng nén xuống thì khí phách của anh hùng càng vùng lên. Xiềng xích càng muốn trói buộc con ngƣời và dập tắt mọi thi hứng thì tinh anh của con ngƣời tự do càng phát tiết ra ngoài và kết lại trong thơ. Nhật ký trong tù đã phản ánh sâu sắc và sinh động những sự kiện từ ngày Hồ Chí Minh bị bắt ở Túc Vinh và trải qua 14 tháng giam cầm, qua gần 30 nhà tù của 13 huyện. Trong tù thì ngày mang gông, đêm cùm chân. Giải đi thì tay bị trói, cổ mang vòng xích, dầm mƣa, dãi nắng, trèo núi qua truông… Sống trong tù thì thiếu ăn, thiếu ngủ, thiếu không khí. Ban đêm thì “ngồi trên hố xí để chờ sáng”. Buổi sáng thì đi đổ thùng và quét nhà giam. Đã thế còn bị hành hạ bởi muỗi, bởi rệp, bởi ghẻ lở. Thơ của Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở việc mô tả những hiện tƣợng của hoàn cảnh một ngày trong tù bằng nghìn thu ở ngoài xã hội. Giá trị hiện thực của nó còn ở chỗ mỗi hiện tƣợng nêu lên là một tâm trạng. Đối với con ngƣời phong phú về tâm hồn và đa dạng về tình cảm nhƣ Hồ Chí Minh những ngày trong tù là những ngày có oán, có thƣơng, có đau xót, có uất hận, có u sầu. Nghĩ đến nhiệm vụ dở dang của mình, lòng chiến sĩ bừng lên nhƣ lửa cháy:
  • 16. 16 | GS – AHLĐ – Vũ Khiêu Hoàn cầu lửa bốc rực trời xanh, Tráng sĩ đua nhau ra mặt trận. Cái u sầu tiếp theo niềm uất giận, giống nhƣ bóng đen của cây đa ngoài cửa ngục, cứ đêm ngày trùm lên nhà lao, trùm lên thân phận con ngƣời: Bóng đa đè nặng nhà lao, Đêm sao lặng ngắt, ngày sao tối sầm! Ƣu sầu và uất giận còn nặng nề hơn nữa trong lúc ốm đau: Ở tù mắc bệnh càng cay đắng, Đáng khóc mà ta cứ hát tràn. Không khóc mà hát. Tiếng hát đó đã biến cái bất hạnh thành niềm tin. Với sự sáng suốt và chủ động của con ngƣời, cái bi đát (le tragique) trở thành cái hài hƣớc (le comique). Cái trữ tình trong thơ chứa đựng thêm một nội dung mỉa mai châm biếm và từ đó lại vang lên một tiếng cƣời kiêu hãnh và khinh bỉ của một ngƣời đứng trên cao nhìn xuống. Không khóc mà hát. Đêm tàn rồi hửng sáng, đông qua rồi xuân sang, khổ hết thì vui đến… Với tinh thần ấy, tác giả nhìn mọi khổ cực của mình và mọi hành vi của kẻ địch với một cái nhìn kiên nghị và lạc quan. Bọn cai ngục dùng dây thừng để trói thì Ngƣời coi nó giống nhƣ “Tua đai quan võ bằng kim tuyến”. Khi chúng thay dây thừng bằng xích sắt thì Ngƣời lại thấy “Mỗi bƣớc leng keng tiếng ngọc rung”. Không khóc mà hát. Tiếng hát đó trở thành những bài thơ hào hứng và thiết tha hƣớng về Tự do, ngƣời tự do, cảnh tự do, quyền tự do, bầu trời tự do… mƣời ba lần Ngƣời nhắc đến tự do. Đã là ngƣời tự do thì “Mặc dù bị trói chân tay” vẫn vui đƣợc với cảnh “Chim ca rộn núi, hƣơng bay ngát rừng”. Đêm không ngủ đƣợc, mỗi lúc viết xong một bài thơ cũng chính là lúc nhà thơ “Nhòm qua khe cửa ngắm trời tự do”.
  • 17. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 17 Mặc dù bị gông cùm trong ngục, nhƣng khi vừa chợp mắt, con ngƣời tự do đã thấy “Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh” hoặc “Mơ thấy cƣỡi rồng lên thƣợng giới”. 2. Cá nhân và cộng đồng Trong “Nhật ký trong tù”, khát vọng lớn nhất là khát vọng tự do, đau khổ lớn nhất là đau khổ của nhân loại. Ở đây cả đến cái vui sâu xa và cái buồn thầm lặng cũng man mác tình ngƣời. Đêm đông lạnh, Ngƣời nhìn những bạn tù “Gối quắp, lƣng còng ngủ chẳng an”. Có ngƣời đã lấy những trang sách bồi lại thành mảnh chăn bằng giấy để đắp tạm, còn hơn “không đệm không chăn”. Hồ Chí Minh viết về những con ngƣời chịu đói mà chết, những ngƣời đau đớn bởi gông cùm còn khốn khổ về tật bệnh. Có ngƣời đêm qua còn nằm ngủ bên cạnh mình mà sáng nay đã chết. Có ngƣời khổ quá đâm nhào xuống xe, chạy trốn lại bị cảnh sát bắt lôi về. Có ngƣời vợ vì chồng trốn lính đã bị bắt giam. Có em bé vừa nửa tuổi đã khóc oa oa trong tù. Có ngƣời vợ đến nhà giam thăm chồng mà chẳng nói đƣợc gì với chồng: Anh ở trong song sắt, Em ở ngoài song sắt, Gần nhau chỉ tấc gang, Mà biển trời cách vực. Bỗng nhớ đến câu thơ thời xƣa: Anh ở đầu sông Tƣơng, Em ở cuối sông Tƣơng. Dòng sông Tƣơng thăm thẳm giữa hai đầu gợi lên sự chia ly xót xa và tình yêu thƣơng bát ngát của một cặp tình nhân. Còn ở đây, giữa bên trong và bên ngoài song sắt là sự cay đắng nghẹn ngào của hai vợ chồng cùng nhìn nhau mà chẳng nói nên lời. Hai đoạn thơ nói về hai cảnh ngộ khác nhau nhƣng lại cùng đẹp nhƣ nhau cả lời lẫn ý.
  • 18. 18 | GS – AHLĐ – Vũ Khiêu Trong những lần bị giải từ nhà ngục này sang nhà ngục khác, Hồ Chí Minh chứng kiến nhiều cảnh sinh hoạt của nhân dân và ghi lại những cảm xúc của mình. Có buổi chiều “Gió sắc tựa gƣơm mài đá núi - Rét nhƣ dùi nhọn chích cành cây”, Ngƣời phác ra những nét sinh động của một bức tranh quê thắm đƣợm nhân tình: Chùa xa chuông giục ngƣời nhanh bƣớc, Trẻ dẫn trâu về tiếng sáo bay… Sống trên đất của nƣớc đang giam cầm mình, Hồ Chí Minh vẫn đầy lòng thƣơng mến với nhân dân nƣớc ấy và lo lắng cho đời sống của họ, khi thấy: “đất khô cằn” và “trời đại hạn”. Có lúc đi thuyền, hai chân bị trói và treo lên nhƣng khi thấy làng xóm bên sông đông đúc thì lòng Ngƣời lại thấy “nhẹ thênh thênh” giống nhƣ “chiếc thuyền chài đang lƣớt sóng giữa dòng sông”. Tình cảm của Ngƣời phản ánh hoàn cảnh khốn khổ của nhân dân lao động mà Ngƣời đã từng thấy ở quê hƣơng và ở mọi nơi trên thế giới. Tình cảm ấy ngày một mãnh liệt, thôi thúc. Ngƣời học tập, suy nghĩ và sáng tạo, hình thành nên những phẩm chất đặc biệt của một nhân cách. Tình cảm riêng tƣ ấy vẫn gắn với cuộc chiến đấu mãnh liệt nhằm đem lại độc lập cho các dân tộc, tự do cho mỗi con ngƣời và văn minh cho cả nhân loại. Chính vì lẽ trên mà trong thơ Hồ Chí Minh đã nổi bật lên cả tính độc đáo của cá nhân và tính phổ quát của cộng đồng khiến Ngƣời xuất hiện nhƣ một hình tƣợng tuyệt vời, hấp dẫn, sự ngƣỡng mộ và khâm phục của đông đảo độc giả. 3. Thiên nhiên và nghệ thuật Nói về thơ thiên nhiên, Hồ Chí Minh từng viết: Thơ xƣa thƣờng chuộng thiên nhiên đẹp, Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông,
  • 19. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 19 Nay ở trong thơ nên có thép, Nhà thơ cũng phải biết xung phong. Qua lời thơ này tƣởng nhƣ Ngƣời không làm thơ về thiên nhiên. Không ngờ thiên nhiên lại tràn ngập trong nhiều bài thơ của Ngƣời. Chỉ có điều là Ngƣời yêu thiên nhiên, nhƣng không dừng lại mô tả “cái đẹp” của thiên nhiên tách khỏi đời sống xã hội. Trong thơ của Ngƣời, nếu nhƣ bông hoa cƣời, con chim hót, nắng xuyên vào ngục, mây trôi trên tầng không… thì đó không chỉ là đối tƣợng xã hội của nhà thơ mà còn là những cảnh ngộ, những tâm trạng, những phƣơng tiện tự thể hiện của con ngƣời. Những lúc cảnh vắng canh khuya, nhà tù đã quạnh hiu, còn quạnh hiu hơn nữa. Đó là những lúc tâm hồn hòa nhập với thiên nhiên và Ngƣời đã viết những bài thơ hay nhất. “Một canh, hai canh lại ba canh” nằm chẳng ngủ, Ngƣời nhìn ra bên ngoài: Khóm chuối trăng soi càng thấy lạnh, Nhòm song Bắc đẩu đã nằm ngang. Lúc này, Ngƣời càng cảm thấy yêu mến và gần gũi với trăng sao và trăng sao đã đƣợc nhân hóa để nói chuyện với Ngƣời. Hồ Chí Minh không chỉ viết một bài về trăng. Trong thiên nhiên có lẽ trăng là hình tƣợng gắn bó nhất với tâm hồn con ngƣời. Trăng là ngƣời bạn thanh cao và gần gũi: Ngƣời ngắm trăng soi ngoài cửa sổ, Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ. Trong nhà tù, đêm trung thu không đƣợc thƣởng trăng, nhà thơ cảm thấy lòng buồn vời vợi: Trung thu vành vạnh mảnh gƣơng thu, Sáng khắp nhân gian bạc một màu… Chẳng đƣợc tự do mà thƣởng nguyệt, Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu.
  • 20. 20 | GS – AHLĐ – Vũ Khiêu Ngay cả khi ra khỏi ngục tù, trong khi chỉ đạo cuộc kháng chiến ở chiến khu, Ngƣời vẫn yêu trăng và gần gũi với trăng. Trăng đòi sự có mặt trong thơ của Ngƣời: Trăng vào cửa sổ đòi thơ, Việc quân đang bận, xin chờ hôm sau.1 Thơ trăng có thể là loại thơ cao nhất trong thơ thiên nhiên. Nó lắng đọng và kết tinh những tình cảm đẹp nhất của con ngƣời. Nó là sự gặp gỡ của những tâm hồn thanh cao trong thế giới huyền diệu và tinh tế của thiên nhiên và nghệ thuật. Qua Nhật ký trong tù, chúng ta thấy nổi lên những quan hệ đẹp nhất giữa con ngƣời với xã hội và con ngƣời với thiên nhiên. Hồ Chí Minh, con ngƣời gắn bó mật thiết với nhân dân lao động lại là ngƣời thích sống với thiên nhiên, làm bạn với thiên nhiên. Giữa Thủ đô nhộn nhịp của Việt Nam, bên cạnh tòa nhà nguy nga của Phủ Chủ tịch, Ngƣời sống trong một ngôi nhà sàn nhỏ bé, bên cạnh ao cá vƣờn cây, giữa hoa thơm và bóng mát. Cứ mỗi dịp kỷ niệm ngày sinh của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam với muôn vàn kính yêu lại hƣớng về con ngƣời đẹp nhất. Con ngƣời ấy luôn luôn hạ mình xuống, coi mình là đầy tớ của nhân dân, nhƣng nhân dân lại nâng Ngƣời lên coi nhƣ vị cha già của dân tộc. Trong cuộc Hội thảo về thơ Đƣờng luật của Bác Hồ hôm nay, chúng ta lại cùng nhau thấy rõ thêm những phẩm chất đặc sắc của một con ngƣời bất diệt. Bất diệt về sự nghiệp anh hùng, bất diệt về tinh hoa văn hóa và bất diệt về nhân cách cao cả trong sự nghiệp của dân tộc và nhân loại. VK 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.544.
  • 21. BÚT PHÁP CÛA BÁC HỒ TRONG SÁNG TÁC THƠ ĐƯỜNG LUẬT TS. Phạm Thị Xuân Châu Chi hội Thơ Đƣờng luật tỉnh Điện Biên Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác Hồ viết khá nhiều thơ Đƣờng luật. Nhật ký trong tù: 133 bài. Thơ chữ Hán ngoài Nhật ký trong tù: 35 bài. Thơ Đƣờng luật quốc ngữ: 35 bài. Nhƣ vậy, thơ Đƣờng luật của Bác tổng cộng trên 200 bài.Trong đó có 178 bài tứ tuyệt, 20 bài bát cú, 5 bài trƣờng thiên. Bên cạnh những bài viết theo đúng tinh thần của thơ cổ, Bác đã dùng Đƣờng luật cải biên thành nhiều thể loại phong phú để cùng biểu đạt những tƣ tƣởng lớn, những tình cảm sâu sắc tinh tế. 1. Về Tổ quốc và Nhân dân Đọc thơ Đƣờng luật của Bác, dù là nhật ký viết trong tù hay những bài thơ sau này trƣớc và sau cách mạng, trong kháng chiến, ta luôn thấy hiển hiện lên một tấm lòng yêu nƣớc thiết tha, một ý chí báo quốc sắt đá, một tấm lòng thủy chung, kiên định, sắt son hƣớng về Tổ quốc, nhân dân, đồng chí, đồng bào, nhƣ tấm lòng của Nguyễn Trãi khi xƣa trong Quốc âm thi tập: Bui một tấm lòng ƣu ái cũ Đêm ngày cuồn cuộn nƣớc triều đông. Bác Hồ của chúng ta cũng vậy, nỗi nƣớc nhà trằn trọc trong giấc ngủ:
  • 22. 22 | TS. Phạm Thị Xuân Châu Một canh... hai canh... lại ba canh... Trằn trọc, băn khoăn, giấc chẳng thành Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh (Thụy bất trƣớc - Không ngủ đƣợc) Ngày nay đọc lại Nhật ký trong tù, chúng ta không khỏi xúc động, và càng thêm hiểu, thêm thƣơng, thêm cảm phục tấm lòng của Bác đối với Tổ quốc, nhân dân dẫu Ngƣời đang trong cảnh đọa đày. Có nỗi đau khổ, đắng cay trong cảnh ốm đau nơi tù ngục, lại là nơi đất khách quê ngƣời, nhƣng vẫn trăn trở không nguôi niềm cố quốc: Ngoại cảm trời Hoa cơn nóng lạnh Nội thƣơng đất Việt cảnh lầm than/ Trong tù mắc bệnh càng đau khổ Đáng khóc mà ta cứ hát tràn. (Bệnh trọng - Ốm nặng) Có nỗi nhớ nƣớc, thƣơng nhà suốt bao tháng ngày khắc khoải, hóa thành lệ rơi trên những dòng thơ: Nghìn dặm bâng khuâng hồn nƣớc cũ Muôn tơ vƣơng vấn mộng sầu nay Ở tù năm trọn thân vô tội Hòa lệ thành thơ tả nỗi này (Thu dạ - Đêm thu) Khi Bác mới ra khỏi nhà tù, thân hình tiều tụy “chân yếu mắt mờ, tóc bạc”, chỉ duy nhất một điều không thay đổi là tấm lòng chung thủy, sắt son: “Giang tâm nhƣ kính tịnh vô trần”, là nỗi niềm thiết tha hƣớng về tổ quốc, quê hƣơng, đồng chí, đồng bào: Bồi hồi độc bộ Tây phong lĩnh Dao vọng Nam thiên ức cố nhân (Tân xuất ngục, học đăng sơn - Mới ra tù, tập leo núi)
  • 23. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 23 Ở những bài thơ này, Bác giữ nguyên đặc điểm cổ kính của thơ tứ tuyệt luật Đƣờng, ngõ hầu diễn tả trọn vẹn chiều sâu của những nỗi niềm: cựu sơn hà, hoài cố quốc, ức cố nhân, nhất là trong hoàn cảnh Năm tròn cố quốc tăm hơi vắng/ Tin tức bên nhà bữa bữa trông (Tức cảnh). Chất trữ tình trong thơ có sự quyện hòa của cả chất tình và chất thép. Màu sắc trữ tình thể hiện qua chính hiện thực tâm trạng của Bác, cho ngƣời đọc thêm hiểu, thêm thƣơng nỗi niềm của Bác trong mƣời bốn trăng tê tái gông cùm, từ đó càng thêm cảm phục ý chí kiên cƣờng của Ngƣời trong gian khổ và tấm lòng thủy chung vô hạn của Ngƣời với Tổ quốc, nhân dân, nhƣ tấm lòng của Ức Trai xƣa trong bài Thuật hứng: Bui có một lòng trung lẫn hiếu Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen. 2. Về cách mạng Thơ Đƣờng luật của Bác giống nhƣ dòng nhật ký hàm súc, trữ tình, ghi lại suy nghĩ, tâm hồn, lý tƣởng của Bác trên bƣớc đƣờng hoạt động. Chiến khu Việt Bắc, chiếc nôi cách mạng buổi ban đầu luôn hiện lên trong thơ Bác, còn in dấu ấn những tháng năm xƣa Bác đã ở nơi đây nhóm lên ngọn lửa cách mạng sáng đến mai sau: Non xa xa, nƣớc xa xa Nào phải thênh thang mới gọi là. Đây suối Lênin, kia núi Mác Hai tay xây dựng một sơn hà. (Pác Bó hùng vĩ) Câu đầu bài thơ chỉ có sáu tiếng. Bác đã sáng tạo bài tứ tuyệt với các câu thất ngôn chen lục ngôn. Sự phá cách này khiến lời thơ trở nên trữ tình, mềm mại, tự nhiên, không còn thấy dấu ấn của thủ pháp miêu tả, mà dƣờng nhƣ chỉ là Bác đang ghi lại hình ảnh núi rừng Pác Bó đầy chất thơ đang trải rộng ra trƣớc mắt mình:
  • 24. 24 | TS. Phạm Thị Xuân Châu Non xa xa, nƣớc xa xa Sự biến thể của thơ tứ tuyệt cho thấy sự linh hoạt của Bác trong bút pháp thi ca. Câu thơ đi ra ngoài công thức gợi ra cái nên thơ, trữ tình của cảnh vật và sự khoáng đạt, bao la, dung dị của hồn ngƣời. Bác chan hòa, gắn bó với thiên nhiên với tình yêu rộng lớn bao la của ngƣời chiến sĩ cách mạng, đang bƣớc theo chân lý ngời sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, với niềm tin tƣởng sắt son vào tiền đồ ngày mai tƣơi sáng của dân tộc, để hôm nay luôn một lòng vững vàng, kiên định sự nghiệp lớn: Hai tay xây dựng một sơn hà Bác không chỉ vận dụng thơ Đƣờng luật để nói những tƣ tƣởng lớn của mình về Tổ quốc và nhân dân, mà thông qua thể thơ này, Bác còn đặt ra những vấn đề quan trọng của đấu tranh cách mạng. Bác đã vận dụng tính hàm súc, ngắn gọn của thơ luật Đƣờng để đúc kết quan điểm cách mạng của mình, nhƣ ở bài thơ chữ Hán Học dịch kỳ (Học đánh cờ). Bên ngoài là chuyện chơi cờ (Nhàn rỗi đem cờ học đánh chơi/ Thiên binh, vạn mã đuổi nhau hoài) nhƣng bên trong lại là vấn đề tƣ duy cách mạng, chiến lƣợc đấu tranh cách mạng: luôn chủ động, sáng tạo và quyết đoán (Tấn công, thoái thủ nên thần tốc/ Chân lẹ, tài cao ắt thắng ngƣời). Bên ngoài là tƣ duy đánh cờ, nhƣng bên trong lại là tƣ duy chiến lƣợc, là tƣ tƣởng tiến công cách mạng một cách khoa học và kiên quyết, giành thế chủ động trong đấu tranh (Phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ/ Kiên quyết không ngừng thế tiến công). Ý chí và trí tuệ của một nhà chiến lƣợc cách mạng, với chiến thuật cách mạng biết thời, biết thế, đón thời, tạo thế đƣợc diễn tả hết sức rõ ràng, sinh động, dễ hiểu trong nội hàm ẩn dụ của thể thơ tứ tuyệt luật Đƣờng: Lỡ nƣớc hai xe đành bỏ phí, Gặp thời một tốt cũng thành công. Bài học nắm bắt thời cơ của Cách mạng Tháng Tám là minh chứng cho chiến thuật cách mạng sắc sảo, đầy trí tuệ của Bác.
  • 25. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 25 Từ việc chơi cờ Bác đặt ra vấn đề tƣơng quan giữa thế và lực, tấn công và phòng thủ, để đi đến kết luận về thế trận cách mạng trên bàn cờ đấu tranh: Vốn trƣớc hai bên ngang thế lực Mà sau thắng lợi một bên giành Tấn công phòng thủ không sơ hở Đại tƣớng anh hùng mới xứng danh. Một thể thơ, vốn mang đậm tính khuôn mẫu, cổ điển, nhƣng trong tay Bác, lại trở thành phƣơng tiện ngôn ngữ linh hoạt, đúc kết sắc bén triết lý đấu tranh cách mạng, mang tính thời đại, tính chính trị sâu sắc. Ngày 11/11, kỷ niệm kết thúc Đại chiến Thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918), Bác viết bài Song thập nhất (Ngày 11/11), nêu lên nhận định của mình về vai trò của các nƣớc châu Á trong công cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa phát xít: Kháng Nhật cờ bay khắp Á châu Cờ to, cờ nhỏ chẳng đều nhau Cờ to ắt hẳn là nên có Cờ nhỏ dù sao, thiếu đƣợc đâu. Bài thơ không triển khai theo mạch khai, thừa, chuyển, hợp thƣờng gặp ở thơ tứ tuyệt mà phát triển theo hình tƣợng lá cờ (tinh kỳ), biểu tƣợng của phong trào kháng Nhật ở mỗi nƣớc. Hai chữ “tinh kỳ” lặp đi lặp lại bốn lần trong suốt cả 4 dòng thơ, gợi không khí kháng Nhật sục sôi khắp châu Á. Bác dùng hình ảnh lá cờ để khái quát cao trào chống Nhật đồng thời nêu lên một quan điểm đầy tự chủ và sắc sảo không chỉ tình hình Việt Nam mà cả tình hình thế giới, không chỉ vai trò của các nƣớc lớn, mà còn vai trò của nƣớc nhỏ (kể cả nhƣợc tiểu), để khẳng định vai trò không thể thiếu của mỗi quốc gia trong sự nghiệp chung:
  • 26. 26 | TS. Phạm Thị Xuân Châu Nƣớc lớn có vai trò của nƣớc lớn: Cờ to ắt hẳn là nên có. Nhƣng nƣớc nhỏ cũng có vai trò của nƣớc nhỏ: Cờ nhỏ dù sao, thiếu đƣợc đâu. Không thể bỏ qua, xem nhẹ, coi thƣờng. Bác đã khẳng định chủ quyền của mọi dân tộc, dù là dân tộc nhỏ, cũng chính là phê phán chủ nghĩa sô-vanh (nƣớc lớn), hòng áp đặt bá quyền đối với những nƣớc vẫn bị coi là nhƣợc tiểu. Quan điểm dân tộc của Bác mang tính quốc tế rộng lớn, đòi hỏi trên toàn thế giới là phải có sự tôn trọng lẫn nhau và có sự bình đẳng giữa các dân tộc. Tƣ duy cách mạng rộng lớn của Bác chứa đựng trong một bài thơ rất nhỏ. Bác dùng bài tứ tuyệt luật Đƣờng cải biên để khẳng định sự thật và chân lý chính trị một cách ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu, mang tính thời đại. Trong thơ Bác không chỉ có trí tuệ cách mạng, mà còn có những tình cảm cách mạng giữa những ngƣời đồng chí, đồng đội. Đáng nhớ nhất là những bài thơ Bác viết về các bậc nhân sĩ yêu nƣớc, những con ngƣời đạo cao đức trọng đã vì chính nghĩa dân tộc mà tự nguyện từ bỏ tất cả, lên chiến khu tham gia kháng chiến, phục vụ đất nƣớc, phục vụ nhân dân, nhƣ bài nhƣ Tặng Bùi công (Tặng cụ Bùi Bằng Đoàn), Tặng Võ công (Tặng cụ Võ Liêm Sơn). Cụ Bùi Bằng Đoàn nguyên là Thƣợng thƣ của triều đình cũ. Cụ nổi tiếng liêm khiết, Bác Hồ vô cùng quý trọng. Bài thơ tứ tuyệt chữ Hán của Bác viết tặng cụ tỏa ra một tình tri kỷ đằm thắm sáng trong. Cụ Võ Liêm Sơn từng đỗ đạt, làm quan dƣới triều Nguyễn một thời, rồi cáo quan bỏ về để phản đối thực dân Pháp xâm lƣợc, phản đối thái độ nhu nhƣợc của triều đình. Bài thơ Bác Hồ viết tặng cụ Võ chan chứa tình đồng cảm tri âm. Bài thơ chữ Hán, viết đúng luật thi, diễn tả thật đằm thắm, sâu sắc tình cảm của những con ngƣời cùng chung lý tƣởng thờ dân, thờ nƣớc, tận hiếu, tận trung, với một niềm tin sắt đá: Kháng chiến ắt thành công. Còn có một bài thơ đặc biệt cảm động là bài Điếu Huỳnh Bộ trƣởng thi (Thơ viếng Huỳnh Bộ trƣởng), đề ngày 21/ 4/1947, ngày tạ thế của cụ chí sĩ yêu nƣớc Huỳnh Thúc Kháng. Bài thơ tiếng Việt, viết
  • 27. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 27 theo thể ngũ ngôn bát cú Đƣờng luật có những chỗ phá cách, mở đầu lại tiếng than thống thiết: Than ôi! Bể Đà Nẵng triều thảm Trông vào Bộ Nội vụ Đèo Hải vân mây sầu Tài đức tiếc thƣơng nhau Tháng tƣ tin buồn đến Đồng bào ba chục triệu Huỳnh Bộ trƣởng đi đâu? Đau đớn lệ rơi châu. Đầu năm 1947, cụ Huỳnh Thúc Kháng trên hai cƣơng vị Bộ trƣởng Bộ Nội vụ và Hội trƣởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) đi kinh lý các tỉnh miền Trung. Tháng 4 năm 1947 khi cụ đang thị sát tình hình tại Quảng Ngãi thì đột ngột lâm bệnh nặng. Biết mình khó qua khỏi, ngày 14/4/1947 cụ viết bức thƣ tâm huyết gửi Bác Hồ: “Tôi bệnh nặng chắc không qua khỏi. Bốn mƣơi năm ôm ấp độc lập và dân chủ, nay nƣớc nhà đã đƣợc độc lập, dân chủ đã đƣợc thực hiện. Thế là tôi chết hả. Chỉ tiếc là không đƣợc gặp lại Cụ lần cuối cùng. Chúc Cụ sống lâu để dìu dắt quốc dân trên đƣờng vinh quang hạnh phúc. Chào quyết thắng!” Cụ Huỳnh ra đi để lại trong Bác xiết bao trống vắng và buồn thƣơng, nhớ tiếc. Bác viết bài thơ ngũ ngôn bát cú luật Đƣờng, nhƣng lại có tính chất một tế văn. Điều chƣa từng gặp trong thơ cổ chí kim. Hai tiếng “Than ôi!” đầy thống thiết mở ra cảm xúc đớn đau. Hai câu thơ đầu cũng không có tính chất khai đề, thừa đề của thơ luật mà đi ngay vào hình ảnh buồn thƣơng của đất trời xứ Quảng: Than ôi! Bể Đà Nẵng triều thảm/ Đèo Hải Vân mây sầu. Thơ luật ít khi đối ở hai câu đề, nhƣng trong trƣờng hợp này, Bác đã đặt lên trƣớc hai hình ảnh đối nhau, bổ sung ý nghĩa cho nhau để nói cho hết nỗi buồn thƣơng của đất trời non nƣớc quê hƣơng trƣớc sự
  • 28. 28 | TS. Phạm Thị Xuân Châu ra đi đột ngột của cụ Huỳnh, ngƣời con ƣu tú của mảnh đất nhân kiệt, địa linh. Những câu tiếp theo cũng không triển khai theo luật mà đều tập trung nói nỗi buồn mất mát: Nỗi ngơ ngác, hẫng hụt: Tháng tƣ tin buồn đến Huỳnh Bộ trƣởng đi đâu? Nỗi đau buồn của Bác: Trông vào Bộ Nội vụ Tài đức tiếc thƣơng nhau. Nỗi đau đớn của đồng bào: Đồng bào ba chục triệu Đau đớn lệ rơi châu. Về ngôn từ, viết về sự ra đi của một bậc chí sĩ yêu nƣớc, hết lòng vì nƣớc vì dân, nên Bác dùng nhiều từ Hán Việt trang trọng xen các từ thuần Việt giàu sắc thái biểu cảm: than ôi, sầu, thảm, buồn, đau đớn, lệ, châu... tạo thành dòng cảm xúc trữ tình lâm ly, thống thiết. Bút pháp mà không phải bút pháp, thể loại mà lại “phi” thể loại, vì sự thật, chính cái gốc tình cảm mới là yếu tố quyết định hình thức và kết cấu của bài thơ. Bài thơ rất gọn, câu thơ rất ngắn mà nói đƣợc đầy đủ cái tình hết mực thâm trọng của Bác, của nhân dân đối với cụ Huỳnh, đồng thời qua đó ngƣời đọc thấy đƣợc tài cao, đức trọng và uy tín lớn của cụ Huỳnh đối với nhân dân. Ngày 29/4/1947, hơn một tuần sau khi cụ Huỳnh tạ thế, Bác Hồ viết thƣ gửi đồng bào cả nƣớc: “Cụ Huỳnh là ngƣời học hành rất rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao. Vì lòng yêu nƣớc mà trƣớc đây cụ bị bọn thực dân làm tội, đày ra Côn Đảo mƣời mấy năm trƣờng, gian nan cực khổ nhƣng lòng son dạ sắt, yêu nƣớc thƣơng nòi của cụ Huỳnh, chẳng những không sờn, lại thêm kiên quyết. Cụ Huỳnh là
  • 29. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 29 ngƣời giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khổ không làm nản chí, oai vũ không làm sờn gan. Cả đời cụ Huỳnh không cầu danh vị, không thèm làm quan. Cả đời cụ Huỳnh phấn đấu cho nhân dân đƣợc tự do, nƣớc độc lập”. Bài thơ và bức thƣ của Bác là minh chứng cho tình đồng tâm, tri kỷ sâu nặng của Bác đối với cụ Huỳnh Thúc Kháng, và cũng là tình cảm cách mạng cao đẹp mà Bác hƣớng tới những bậc chí sĩ của dân tộc. 3. Về con ngƣời Thơ Bác nói chung, Nhật ký trong tù nói riêng, chan chứa một tinh thần nhân đạo cao cả. Đọc Nhật ký trong tù, ta luôn bắt gặp một tình thƣơng bao la hƣớng về những kiếp ngƣời đau khổ mà Bác đã gặp trong nhà tù Trung Quốc hay trên đƣờng bị chuyển lao. Bác thƣơng từ em nhỏ chƣa đầy một tuổi đã phải theo mẹ đến ở nhà tù, thƣơng đến ngƣời phu làm đƣờng dãi gió dầm mƣa; Bác ngậm ngùi xót xa cho ngƣời bạn tù khổ đau vừa mới chết; Bác chạnh lòng thƣơng cho cảnh ngộ của vợ chồng ngƣời bạn tù trong cảnh “gần nhau trong tấc gang, mà biển trời cách mặt”; Bác hiểu lòng ngƣời trong tiếng sáo ly hƣơng và thƣơng ngƣời cô phụ phƣơng xa mòn mỏi ngóng trông chồng. Có thể nói, trái tim nhân ái bao la của Ngƣời nhƣ vầng dƣơng ấm áp bao dung chiếu tới mọi cảnh đời. Vậy nên, Bác vui khi ngƣời nông dân đƣợc mùa cƣời tƣơi hớn hở (Dã cảnh), Bác xót xa khi trên đƣờng đi nhìn cảnh hạn hán, ngƣời nông dân rơi vào cảnh cơ khổ mất mùa: Nghe nói xuân nay trời đại hạn/ Mƣời phân thu hoạch chỉ vài phân (Long An - Đồng Chính), Bác quên đi nỗi mệt nhọc, cô đơn trên đƣờng lƣu đày để đồng cảm với cuộc sống bình dị, đơn sơ của ngƣời lao động: Cô em xóm núi xay ngô tối/ Xay hết lò than đã rực hồng) (Mộ - Chiều tối). Không hề có một khoảng cách hay sự phân biệt nào trong tình cảm của Bác đối với nhân dân Trung Quốc. Bác xót thƣơng đồng bào
  • 30. 30 | TS. Phạm Thị Xuân Châu của mình trong cảnh lầm than, và Bác cũng thƣơng xót nhân dân Trung Hoa trong cảnh đời đau khổ. Cho dù chính cái chính quyền của Tƣởng Giới Thạch khi ấy đang bắt giam Ngƣời một cách vô lý và đầy đọa Ngƣời qua bao nỗi đắng cay. Đọc thơ Đƣờng luật của Bác, ta nhận thấy sự cải biên để tạo ra những biến thể, phá cách chẳng qua cũng chỉ là để diễn tả một chiều sâu tƣ tƣởng, một ý nghĩa nhân sinh cao đẹp trong trái tim rộng lớn của Ngƣời. Chẳng hạn bài Tân Dƣơng ngục trung hài (Cháu bé trong nhà lao Tân Dƣơng), một bài thơ tứ tuyệt luật Đƣờng nhƣng lại mở đầu bằng một câu thơ phi Đƣờng luật: Oa...! Oa...! Oa...! Cha trốn không đi lính nƣớc nhà Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi Phải theo mẹ đến ở nhà pha. Câu thơ mở đầu chỉ có 3 tiếng “Oa...! Oa...! Oa, là âm thanh tiếng khóc của cháu bé trong nhà lao. Chính câu thơ “tam ngôn” với ba chữ tƣợng thanh “Oa...! Oa...! Oa...!” hoàn toàn thuần Việt đã gây ra ấn tƣợng mạnh mẽ về tiếng khóc của cháu bé sơ sinh vang lên trong tù ngục, vọng vào trái tim ta niềm xót xa, thƣơng cảm, gieo nỗi bất bình, phẫn nộ về chính sách vô nhân đạo và hết sức vô lý của nhà cầm quyền Tƣởng Giới Thạch lúc đƣơng thời. Yêu thƣơng những con ngƣời khổ đau bất hạnh bao nhiêu, Bác cũng kịch liệt phê phán những kẻ vô lƣơng, bất chính bấy nhiêu. Ngòi bút của Bác lúc thì trữ tình đằm thắm, khi lại trào lộng sâu cay, nhƣ trƣờng hợp bài thơ Lai Tân (來賓), bài thơ số 96 của Nhật ký trong tù. Xuất phát từ yêu cầu biểu đạt nội dung, Bác đã sử dụng một kết cấu độc đáo, không theo trình tự, lớp lang kiểu khai, thừa, chuyển, hợp của tứ tuyệt luật Đƣờng. Ở đây, Bác dùng cả ba câu đầu vào một nhiệm vụ, nhƣ ba mũi xung kích cùng giáp công một tiền đồn:
  • 31. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 31 Câu 1: Ban trƣởng nhà lao chuyên đánh bạc Câu 2: Giải ngƣời cảnh trƣởng kiếm ăn quanh Câu 3: Chong đèn huyện trƣởng làm công chuyện Câu 4, bất ngờ hạ xuống, kết thúc nhẹ bẫng: Trời đất Lai Tân vẫn thái bình Bằng kết cấu “lệch chuẩn” đặc biệt này, Bác đã lôi ra giữa thanh thiên bạch nhật những chân dung nhem nhuốc của các vị chức sắc, từ ban trƣởng nhà lao đến cảnh trƣởng, huyện trƣởng, mỗi ngƣời một vẻ, nhƣng đều giống nhau ở chỗ cùng đại diện cho bộ mặt đen tối, thối nát của chính quyền (Tƣởng Giới Thạch). Họ đều là “trƣởng” (ngƣời đứng đầu) nhƣng ngày ngày chỉ cặm cụi và mẫn cán với những tệ đoan: cờ bạc, ăn chặn, chơi bời, hút xách, nhận hối lộ..., trong khi đó, thật mai mỉa và khôi hài thay: Trời đất Lai Tân vẫn thái bình (Lai Tân y cựu thái bình thiên). Kết cấu 3/1, với vai trò bình đẳng, ngang hàng của câu 1, 2, 3 và sự kết thúc đột ngột, bất ngờ ở câu 4 đã tạo ra một nét nhấn “chết ngƣời”, cho ngƣời đọc thấy rõ tấm màn giả tạo “nghìn thu thái bình” không che đƣợc hiện thực thối nát. Với bút pháp thâm thúy, với thủ pháp nghệ thuật đối lập, kiểu câu lặp cú pháp mà chủ ngữ là những ban trƣởng, cảnh trƣởng, huyện trƣởng cùng với những việc làm dơ dáy của họ, bài thơ Đƣờng luật phá cách này giống nhƣ một cuộn phim tƣ liệu cực ngắn, cực sắc lƣu lại vĩnh viễn bức tranh hiện thực đen tối của xã hội Trung Quốc dƣới thời Tƣởng Giới Thạch. Giúp ta nhìn đƣợc sâu hơn vào số phận khổ đau của nhân dân Trung Quốc cũng nhƣ tình cảnh khốn cùng của những phạm nhân chẳng may trót sa chân vào chốn ngục tù. Cũng đứng trên lập trƣờng nhân văn sâu sắc, Bác có một cái nhìn rất riêng, khác nhiều ngƣời về công trình Vạn lý Trƣờng Thành: Nghe nói Trƣờng Thành vạn dặm trƣờng Chạy từ Đông Hải tới Tây cƣơng.
  • 32. 32 | TS. Phạm Thị Xuân Châu Hàng bao nhiêu triệu ngƣời lao động Xây đắp thành này trấn một phƣơng. (Vịnh Vạn lý Trƣờng Thành) Vạn lý Trƣờng Thành là một công trình kiến trúc thành lũy lớn nhất trong lịch sử văn minh nhân loại, đƣợc UNESSCO xếp loại là một trong bảy kỳ quan của thế giới. Năm 1955, Bác sang thăm Trung Quốc. Đứng trƣớc Vạn lý Trƣờng Thành đồ sộ, nhƣng Bác không choáng ngợp vì sự vĩ đại của nó mà xúc động nghĩ tới nhân dân, những con ngƣời bình thƣờng nhất, bé nhỏ nhất, chịu nhiều khổ đau và thiệt thòi nhất, hàng trăm vạn ngƣời, đã đắp nên thành này để “trấn giữ một phƣơng”. Máu, mồ hôi, và nƣớc mắt của nhân dân lao động từ bao nhiêu thế kỷ đã chảy xuống để dựng nên cho ai một Vạn lý Trƣờng Thành? Có thể thấy, tầm cao tƣ tƣởng, chiều sâu nhân văn, chính là nhân cách văn hóa lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Ngƣời đứng trƣớc công trình này, và đã viết nên bài thơ chỉ có bốn câu, hoàn toàn theo đúng luật Đƣờng để nói quan điểm riêng của Bác về nhân dân, về Vạn lý Trƣờng Thành. Đến Khúc Phụ, Sơn Đông thăm miếu Khổng Tử, Bác cũng có những cảm nghĩ sâu sắc để ngày nay chúng ta đƣợc học tập: 五月十九訪曲父 Ngũ nguyệt thập cửu phỏng Khúc Phụ, 古松古廟两依稀 Cổ tùng cổ miếu lƣỡng y hi. 孔家世力今何在 Khổng gia thế lực kim hà tại? 只剩斜陽照古碑 Chỉ thặng tà dƣơng chiếu cổ bi. Dịch nghĩa: Ngày 19 tháng 5 tới thăm Khúc Phụ, Cây tùng cổ, ngôi miếu cổ, cùng chìm trong hoang vắng. Thế lực họ Khổng ngày nay ở nơi nào? Chỉ còn sót lại chút nắng chiều tà chiếu trên tấm bia cổ.
  • 33. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 33 Bài thơ chữ Hán, viết theo đúng đặc trƣng thể tứ tuyệt luật Đƣờng. Câu 1: nói thời gian đến thăm Khúc Phụ, quê hƣơng của Khổng Phu Tử. Câu 2: nói không gian cảnh thực ngày nay: cây tùng nghìn tuổi, ngôi miếu nghìn năm, cùng nhƣ chìm trong hoang vắng. Từ cảnh thực ở câu 2, Bác mới đi tới câu thứ 3, nói những ý nghĩ sâu xa của mình về Khổng giáo, mà Bác thấy là một thế lực đã lỗi thời (dù Bác thấu hiểu Khổng Tử đã từng có một vị trí nhất định trong lịch sử tƣ tƣởng phƣơng Đông): Khổng gia thế lực kim hà tại? Hai chữ “thế lực” nguyên để chỉ một sức mạnh đè nén, áp chế tƣ tƣởng và số phận con ngƣời. Vậy nên, bốn chữ “Khổng gia thế lực” mà Bác dùng mang nội hàm ý nghĩa phê phán rất sâu xa: 1) Đó là cái thế lực đã đèn nén con ngƣời công dân, không cho con ngƣời có quyền tự do sống, giam con ngƣời trong vòng “tam cƣơng” của Nho giáo, thống trị tƣ tƣởng con ngƣời bằng lí thuyết quân thần/ vua và bề tôi, trói chặt con ngƣời trong vòng kiềm tỏa của kẻ thống trị (Quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung/ Vua bảo bề tôi chết, mà không chịu chết là bất trung). 2) Đó là cái thế lực đã đè nén ngƣời phụ nữ dƣới chế độ nam quyền bất bình đẳng “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, khinh miệt nữ giới: “Nữ nhân nan hóa”, và đặt ra thuyết “tam tòng” hà khắc trói buộc ngƣời phụ nữ suốt cả cuộc đời “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Bác phê phán Khổng giáo, nhƣng không phải là phê phán nội dung đạo đức của đạo Khổng, mà là phê phán cái quyền uy, cái thế lực đã hàng nghìn năm đè nén, áp chế con ngƣời bằng học thuyết Khổng giáo. Chính vì không công nhận tƣ tƣởng thống trị của Khổng giáo, cho đó là một học thuyết đã lỗi thời, không còn phù hợp với thời đại cách
  • 34. 34 | TS. Phạm Thị Xuân Châu mạng ngày nay, nên Bác đã nêu một câu hỏi đầy thâm thúy: Khổng gia thế lực kim hà tại? Hỏi nhƣng chính là để khẳng định: Thế lực hàng nghìn năm của họ Khổng nay đã đâu còn! Cho nên, dƣới cái nhìn đầy chất nhân văn của Bác thì ngày nay học thuyết Khổng giáo chỉ nhƣ ánh chiều tà còn rớt lại, cũng nhƣ những gì đã đƣợc chạm khắc vào trong tấm bia cổ kia giờ đây cũng nhạt mờ theo thời gian và đang chìm vào trong bóng tà dƣơng của lịch sử: Chỉ thặng tà dƣơng chiếu cổ bi. KẾT LUẬN 1) Di sản của Bác để lại cho chúng ta trong mấy trăm bài thơ Đƣờng luật Bác đã viết bằng chữ Hán và chữ Việt đã cho ta bài học lớn về việc dùng nghệ thuật cổ điển, có những sáng tạo, để diễn đạt những ý tƣởng hiện đại. Ta cũng thấy trong thơ của Bác có “trăm lời trăm ý đẹp”, là những “vần thơ thép” mà vẫn “mênh mông bát ngát tình”. 2) Dù khi phá cách, cải biến, hay khi giữ nguyên luật lệ của thơ Đƣờng, thì thơ Bác vẫn thể hiện đúng con ngƣời Bác: không thụ động, không sao chép, máy móc, mà luôn cơ động, linh hoạt, độc lập trong tƣ duy và tự chủ trong sáng tạo. Chính điều đó làm nên phong cách thơ Đƣờng luật của Bác: cổ điển mà hiện đại, truyền thống mà cách mạng, làm đẹp thêm cho di sản thơ Đƣờng luật của dân tộc. 3) Giá trị thơ của Bác không phải chỉ đƣợc phát huy trong phạm vi nƣớc ta mà còn đƣợc thế giới tìm hiểu và ngƣỡng mộ. Ông giám đốc nhà xuất bản Pháp Pierre Seghers, khi xin in thơ Bác có phát biểu rằng: “Ngƣời đọc thơ Hồ Chí Minh nếu không nâng tâm trí mình lên đúng mức thì rất khó để hiểu cho hết đƣợc cái tinh túy của thơ”. PTXC
  • 35. CHẤT CHÂN THỰC VÀ LẠC QUAN TRONG THƠ CHÛ TỊCH HỒ CHÍ MINH Nhà thơ Hoài Yên Nguyên Chủ tịch CLB UNESCO Thơ Đƣờng Việt Nam ĐT: 09 888 95 738 Nghe nói học giả ngƣời Trung Hoa, ông Quách Mạt Nhƣợc, khi đọc Ngục trung nhật ký của chủ tịch Hồ Chí Minh, đã khen hay và ví với thơ của các danh sĩ đời Đƣờng. Điều đó có khía cạnh đúng, nhƣng cũng có khía cạnh chƣa chính xác. Khía cạnh đúng là ở tính chân thực trong biểu cảm thơ của họ giống nhau, khiến những bài thơ đều hay và dễ đi vào lòng ngƣời đọc. Ở khía cạnh khác, thơ chủ tịch Hồ Chí Minh thì lạc quan yêu đời, đầy tự tin, còn thơ của các danh sĩ đời Đƣờng thì ngập chìm trong “nỗi sầu vạn cổ”. Chúng ta hãy phân tích 2 bài thơ làm ví dụ dƣới đây để chứng minh luận điểm này: Bài “Giải đi sớm” của chủ tịch Hồ Chí Minh: I- “Gà gáy một lần đêm chửa tan Chòm sao đƣa nguyệt vƣợt lên ngàn Ngƣời đi cất bƣớc trên đƣờng thẳm Rát mặt đêm thu trận gió hàn.” II- “Hƣớng đông màu trắng chuyển sang hồng Bóng tối đêm tàn quét sạch không Hơi ấm bao la trùm vũ trụ Ngƣời đi thi hứng bỗng thêm nồng.” Nam Trân (Dịch)
  • 36. 36 | Hoài Yên Bài “Lúc chiều hôm” của danh sĩ thi thánh Đỗ Phủ (Đời Đƣờng): “Nƣớc sông còn chảy mãi nơi này Núi vắng mây chiều lơ lửng bay Hoa lạnh nép mình trong cỏ rối Chim buồn chọn chỗ giữa cây dày Ngày nào nƣớc cũ về thăm nhỉ? Thu muộn lòng riêng chịu khổ đây! Tuổi trẻ đời ngƣời không trở lại Bạc phau mái tóc tựa tơ gầy.” Đinh Vũ Ngọc (Dịch) Cách chọn bối cảnh thiên nhiên ở cả 2 bài đều có dụng ý. Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn buổi sáng, bắt đầu tử nửa đêm về sáng, trời còn đang tối tăm mù mịt với những cơn gió rét mùa thu rát mặt. Nhƣng sau đó, trời sáng hồng, hơi ấm tràn ngập, khiến ngƣời thơ dâng trào cảm hứng. Tinh thần lạc quan của bài thơ bao trùm. Trong khi đó, thi thánh Đỗ Phủ chọn khung cảnh buổi chiều của một ngày sắp tàn. Ở thời của ông phổ biến một quan điểm là “Thi dĩ bi vi mỹ” (Thơ có buồn mới hay), ngƣời thơ bơi trong “nỗi sầu vạn cổ”, thƣơng cho thân phận chịu “riêng nỗi khổ đây, tiếc cho thời trai trẻ không trở lại và ngán cho mái tóc bạc tựa tơ gầy! Cái khung cảnh của một chiều thu muộn, mây bay lơ lửng, hoa lạnh chim buồn giúp cho tác giả dễ gửi gắm lòng mình đang nhớ về quê hƣơng, những mong giải tỏa nỗi buồn, nhƣng hình nhƣ lại càng buồn thêm! Nói nhƣ thi tiên Lý Bạch “Cử bôi tiêu sầu, sầu cánh sầu”. Cả hai bài thơ đều hay, đều dễ đi vào lòng ngƣời, bởi vì cả hai tác giả đều giãi tỏ lòng mình một cách chân thực, thánh thiện (Có chân, có thiện ắt có mỹ). Nhƣng họ khác nhau ở tinh thần và quan điểm sống, nên những gì họ gửi gắm qua bài thơ thì hoàn toàn khác nhau. Cái hay của thơ Đỗ Phủ, hàng nghìn năm nay đã đƣợc khẳng định, nhƣng quan điểm “Dĩ bi vi mỹ” thì hiện thời không còn phù hợp nữa. Thơ nói chung, đâu chỉ có buồn mới hay!? HY
  • 37. BÁC HỒ VẬN DỤNG TUYỆT CÚ ĐƯỜNG THI PGS-TS Hồ Sĩ Hiệp Đại học Sƣ phạm Tp. Hồ Chí Minh Bác Hồ là ngƣời tinh thông Hán ngữ, yêu thích văn học cổ Trung Quốc. Từ nội dung các truyện cổ dân gian “Ngu Công dời núi” và “Chim Tinh Vệ lấp biển” Bác đã sáng tác ra mấy câu thơ giản đơn nhƣng ý nghĩa sâu sắc trong những năm khó khăn gian khổ, có tính chất châm ngôn nhằm giáo dục thanh niên: “Không có việc gì khó, Chỉ sợ lòng không bền, Đào núi và lấp biển, Quyết chí ắt làm nên.” “Lƣơng Sơn bá – Chúc Anh Đài” cũng là một truyện dân gian quen thuộc của nhân dân Trung Quốc. Những năm sau hòa bình lập lại (1954) sau khi xem đoàn Cải lƣơng Khu 4 diễn vở “Lƣơng Sơn Bá – Chúc Anh Đài” Bác đã cảm hứng đọc mấy câu thơ sau đây nói lên cảm nghĩ của mình về xã hội thời xa xƣa: Đánh cho phong kiến tan tành, Cho bao nhiêu Anh Đài, Sơn Bá đƣợc thành lứa đôi …” Ngoài văn học dân gian trong văn học Trung Quốc, Bác yêu thích thơ Đƣờng, thơ Tống. Trong đời sống hàng ngày nhất là trong các bài nói, bài viết Ngƣời thƣờng dẫn chứng nhiều thi từ, thi liệu của thơ ca cổ điển Trung Hoa. Trong “Nhật ký trong tù”, ở trên đất nƣớc Trung Quốc mặc dù tự nhận là “ngâm thơ ta vốn không ham” nhƣng vì “trong ngục biết làm gì đây” nên Bác đành “vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do”. Trong hơn một năm ngồi tù với cảnh “Quảng Tây giải khắp mƣời ba huyện” để “vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do”, Bác đã
  • 38. 38 | PGS.TS. Hồ Sĩ Hiệp đọc một tuyển tập thơ ca cổ điển Trung Quốc, sau đó Bác có làm thơ nói lên cảm tƣởng của mình khi đọc tập thơ này – đó là bài “Cảm tƣởng đọc Thiên gia thi” (Khán Thiên gia thi hữu cảm). “Thiên gia thi” là một tập thơ mỏng, tuyển chọn các bài thơ tả cảnh thiên nhiên phổ biến của thời Đƣờng – Tống thời xƣa dùng làm sách học cho trẻ con ở nhà trƣờng. Tập này lƣu truyền khá phổ biến ở vùng Liễu Châu, tỉnh Quảng Tây. Trong thời gian thực tập Hán ngữ ở trƣờng Đại học Sƣ phạm Quảng Tây tại Quế Lâm chúng tôi nhiều lần đến Liễu Châu. Đi qua những nơi mà Bác Hồ đã từng đến và bị “giải khắp mƣời ba huyện” của tỉnh Quảng Tây, chúng tôi đều cảm nhận thêm về tên đất, tên ngƣời và sự việc mà Bác miêu tả trong “Nhật ký trong tù”. Trong các hiệu sách lớn nhỏ của tỉnh Quảng Tây ngày nay, tập “Thiên gia thi” đƣợc bày bán rất nhiều. Điều này gợi cho chúng tôi sự ƣớc đoán là những thập kỷ đầu của thế kỷ này, “Thiên gia thi” là tác phẩm đƣợc lƣu truyền rộng rãi ở các tỉnh miền Nam Trung Quốc, nhất là ở Quảng Tây và Quảng Đông. Ở Trung Quốc hiện nay, có nhiều tập “Thiên gia thi”, nhƣ: “Thiên gia thi” do Tạ Phƣơng Đắc chủ biên (Bắc Kinh, Đại Trung ấn loát), “Thiên gia thi” do Lƣu Hậu Thôn biên soạn từ đời Tống. Theo chúng tôi, bản “Thiên gia thi” mà Bác đọc trong thời gian ở nhà tù Liễu Châu là bản của Lƣu Hậu Thôn, ngƣời đời Tống biên soạn. “Thiên gia thi” dày hơn 200 trang, tuyển chọn 228 bài thơ của hơn một trăm tác giả nổi tiếng (cũng có một số bài vô danh) của các đời Đƣờng – Tống. Trong số các tác giả có thơ tuyển chọn vào thi tập và có nhiều nhà thơ lớn nhƣ: Vƣơng Bột, Thôi Hiệu, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cƣ Dị (Đƣờng), Tô Thức, Lục Du (Tống), v.v… Thơ đƣợc tuyển chọn đều thuộc loại thơ cận thể: ngũ tuyệt (39 bài), ngũ luật (47 bài), thất tuyệt (94 bài). Các bài thơ này đều là những bài thơ ngắn, thanh luật đơn giản, lời thơ trau chuốt, ít điển cố, điển tích, dễ đọc, dễ thuộc. Ngoài phần tuyển thơ sau mỗi bài đều có lời giới thiệu tác giả,
  • 39. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 39 chú giải và giải nghĩa rất cô đọng, dễ hiểu. Nhiều bài thơ hay đƣợc truyền tụng trong thơ Đƣờng – Tống đều đƣợc tuyển chọn nhƣ bài “Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu, “Tĩnh dạ tƣ” của Lý Bạch, “Khúc giang” của Đỗ Phủ, “Phong Kiều dạ bạc” của Trƣơng Kế, “Thanh minh” của Đỗ Mục,“Thu tứ” của Lục Du, v.v… Đề tài khá phổ biến trong “Thiên gia thi” là thiên nhiên. Chính vì vậy, cảm tƣởng đầu tiên của Bác khi đọc thi tập này là: “Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ” (Thơ xƣa nghiêng về yêu vẻ đẹp của thiên nhiên). “Cổ thi” mà Bác nói ở đây là “Cổ thi” trong “Thiên gia thi”, tức là thơ Đƣờng, thơ Tống thời xƣa. Vì là sách dạy học ở trong nhà trƣờng phong kiến Trung Quốc với mục đích làm cho ngƣời dạy, ngƣời học dễ thuộc, dễ nhớ ít liên quan đến xã hội, chính trị nên thơ tuyển chọn trong “Thiên gia thi” phần lớn là thơ miêu tả về cảnh đẹp thiên nhiên với cảnh núi sông, cỏ cây, hoa lá, hoa tuyết, gió mây mà Bác khái quát là: “Sơn thủy yên hoa tuyết nguyệt phong” (Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông) mà ít chú ý đến phản ảnh hiện thực đời sống xã hội. Không có nhà thơ đời Đƣờng – Tống nào là không có những bài thơ miêu tả thiên nhiên tuyệt hay. Cảnh “Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông” mà Bác nói chính là những đề tài phổ biến trong thơ của các nhà thơ nổi tiếng đời Đƣờng nhƣ: Lý Bạch, Vƣơng Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Cao Thích, Sầm Tham, Trƣơng Nhƣợc Nhƣ. Thái độ của Bác sau khi đọc “Thiên gia thi” là nói lên cảm tƣởng của mình chứ không phải phê bình nhƣ trƣớc đây nhiều ngƣời đã nhận định theo câu thơ dịch “Thơ xƣa yêu cảnh thiên nhiên đẹp”. Theo ý ấy của Bác có thể hiểu là: sau khi đọc “Thiên gia thi” ngoài các đề tài xã hội và nhân sinh thì phần lớn các thi phẩm này “nghiêng về miêu tả cảnh đẹp thiên nhiên” (thiên ái thiên nhiên mỹ). Từ cảm tƣởng đến đề tài xã hội, nhân sinh, thơ ca phải là vũ khí, có tính chiến đấu cao, nhà thơ phải là ngƣời chiến sĩ, hăng hái xung phong trên mặt trận văn hoá tƣ tƣởng: “Nay ở trong thơ nên có thép; nhà thơ cũng phải biết
  • 40. 40 | PGS.TS. Hồ Sĩ Hiệp xung phong” (Hiện đại thi trung ƣng hữu thiết, thi gia dã yếu hội xung phong). Trong thơ ca cổ điển Trung Hoa, Bác chịu ảnh hƣởng của thơ Đƣờng khá sâu sắc về các mặt: thể loại, ngôn từ, thi tứ, tiêu đề, bút pháp, v.v… Tuyệt đại thơ chữ Hán của Bác Hồ là thơ tứ tuyệt, tiêu đề các bài thơ nhƣ: Thu dạ, Đối nguyệt, Đăng sơn, Thế lộ nan, Vọng nguyệt, Trung thu, Dạ cảnh, Hoàng hôn trong thơ Bác đều rất phổ biến trong thơ Đƣờng – Tống. Những lối thơ nhƣ vịnh, phỏng, tƣ, tặng, vô đề mà Bác sử dụng đều quen thuộc trong thơ Đƣờng. Thơ Đƣờng (618 - 907) là đỉnh cao chói lọi của thơ cổ Trung Quốc và phƣơng Đông. Thời xƣa và ngay cả thời nay các nƣớc “đồng văn” nhƣ Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam đều chịu ảnh hƣởng sâu sắc của thơ Đƣờng. Sự ảnh hƣởng đó kết hợp với sự vận dụng, sáng tạo để sáng tác những thi phẩm mang phong cách, thể luật và ngôn từ hàm súc, tinh luyện của Đƣờng thi. Có thể nói ở các nƣớc phƣơng Đông không có quốc gia nào chịu ảnh hƣởng và vận dụng sáng tạo thơ Đƣờng nhƣ ở Việt Nam. Từ ngàn xƣa ở Việt Nam đã có các khái niệm quen thuộc nhƣ “thơ Đƣờng”, “thơ Đƣờng luật”. “Thơ Đƣờng” là để chỉ thơ Trung Quốc xuất hiện ở đời Đƣờng và “thơ Đƣờng” luật là để chỉ thơ cổ Việt Nam mà ngƣời Việt Nam sáng tác theo thể thơ Luật thi – thất ngôn bát cú của đời Đƣờng. Thơ Đƣờng luật gồm 8 câu, mỗi câu 7 chữ tuy đã là ngắn, gọn so với những kiệt tác trƣờng thi kiệt tác trong thơ Đƣờng nhƣ “Trƣờng hận ca” và “Tỳ bà hành” của Bạch Cƣ Dị nhƣng để rút gọn hơn, ngắn hơn, đơn giản và dễ hiểu hơn, các nhà thơ đời Đƣờng đã có “sáng kiến” là “cắt” bài Luật thi (8 câu) ra thành hai bài gọi là “tuyệt cú”. Chữ “tuyệt” trong “tuyệt cú” vốn gọi là “tiệt cú” (tiệt là cắt – thơ 8 câu cắt ra), cắt từ một bài 8 câu của Luật thi thành ra hai bài 4 câu của thơ tuyệt cú. Tƣởng rằng thơ Luật thi 8 câu hoàn chỉnh hay nhƣng thơ tuyệt cú 4 câu cũng rất tuyệt diệu về ngôn từ và ý tứ nên đƣơng thời không gọi là thơ “tiệt cú” (thơ câu cắt) mà gọi là thơ “tuyệt cú” (thơ câu hay). Ở Trung Quốc xƣa nay thƣờng gọi thể thơ độc đáo này của thơ Đƣờng là tuyệt
  • 41. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 41 cú còn ở Việt Nam hay gọi là thơ “tứ tuyệt”. Luật thi và tuyệt cú là hai thể loại đặc sắc và rất phổ biến trong thơ Đƣờng. Hai bài “tuyệt cú” là “Phong Kiều dạ bạc” của Trƣơng Kế và “Thanh minh” của Đỗ Mục rất đƣợc yêu thích và lƣu truyền ở Việt Nam xƣa nay. Các nhà thơ lớn của dân tộc ta nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hƣơng đều chịu ảnh hƣởng sâu sắc và sáng tạo đối với thơ tuyệt cú đời Đƣờng. Các nhà thơ Việt Nam nổi tiếng nhƣ Tản Đà, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Thế Lữ, Tế Hanh đều yêu thích, chịu ảnh hƣởng và vận dụng thể thơ rất đặc biệt này của thơ Đƣờng. Bác Hồ là nhà chính trị đồng thời cũng là nhà văn hóa, nhà thơ. Trong cuộc đời cách mạng, về văn, Ngƣời chịu ảnh hƣởng của văn phƣơng Tây và Nga. Về thơ, Ngƣời am tƣờng, yêu thích và hay vận dụng thơ Đƣờng để tuyên truyền, vận động và giáo dục quần chúng. Ngƣời nói: “Ngâm thơ ta vốn không ham, nhƣng vì trong ngục biết làm chi đây. Ngày dài ngâm ngợi cho khuây, vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do” (Nhật ký trong tù). Bài “Khán Thiên gia thi hữu cảm” (Cảm tƣởng đọc Thiên gia thi) có thể coi là một bài cảm nhận và phê bình thơ đơn giản, dễ hiểu của Bác. Bác nói đến hai chữ “cổ thi” (thơ cổ) để chỉ thơ cổ Trung Hoa chủ yếu là thơ Đƣờng. Đề tài phổ biến trong thơ Đƣờng là “mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông”. Đó là thực thể, là vẻ đẹp của tự nhiên. Hai câu cuối thể hiện cảm nghĩ và cũng có thể nói là quan niệm của Bác đối với thơ ca hiện đại phải là có “chất thép” và nhà thơ chẳng phải để “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây” mà phải biết “xung phong” mạnh mẽ trên mặt trận văn hóa. Nói đến sự vận dụng thơ tuyệt cú đời Đƣờng của Bác trong cuộc sống và hoạt động của Bác là phải nói đến một thi tập mà ở trong nhà tù Tƣởng Giới Thạch ở Quảng Tây, Trung Quốc mà Bác có đọc và sau đó có làm một bài thơ phát biểu cảm tƣởng – đó là tập thơ “Thiên gia thi” (Thơ nghìn nhà) của nhà thơ cũng là nhà biên soạn đời Tống là Lƣu Hậu Thôn. Thời gian ở trong nhà tù Tƣởng Giới Thạch Bác đã đọc “Thiên gia thi” và họa theo một số bài với mục đích nói lên cảm nghĩ, hoàn cảnh của bản thân và hiện thực ở chốn lao tù thời bấy
  • 42. 42 | PGS.TS. Hồ Sĩ Hiệp giờ. Ngày nay, sau hơn 75 năm, đọc lại “Nhật ký trong tù” (1941) và thơ kháng chiến làm trong kháng chiến ở Việt Bắc của Bác, mọi ngƣời đều dễ nhận thấy Bác đã khéo vận dụng ý tứ, vần điệu, đề tài của thơ tứ tuyệt đời Đƣờng trong cuộc sống và hoạt động cách mạng của mình. Qua “Nhật ký trong tù” và thơ chữ Hán của Bác, chúng ta có thể thấy Bác vận dụng thơ Đƣờng – Tống rất nhiều. Câu thơ “xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên” (sông xuân nƣớc lẫn, màu trời thêm xuân) trong bài “Nguyên tiêu” của Bác không phải là không có duyên nợ với câu thơ “Thu thủy cộng trƣờng thiên nhất sắc” (Sông thu cùng với trời xa một màu) trong bài “Đằng Vƣơng Các tự” của thi sĩ Vƣơng Bột. Đọc bài thơ “Vọng nguyệt” (Ngắm trăng) của Bác ngƣời đọc liên tƣởng đến bài thơ “Tĩnh dạ thƣ” (Suy nghĩ trong đêm thanh tĩnh) của Lý Bạch. Trong bài “Đi đƣờng” của Bác có hai câu: “Trùng sơn đăng đáo cao phong hậu. Vạn lý dƣ đƣa cố miện gian” (Núi cao lên đến tận cùng. Thu vào tầm mắt muôn trùng nƣớc non) thì cũng có tứ thơ giống câu thơ “Dục cùng thiên lý mục. Cánh thƣớng nhất tầng lâu” trong bài “Đăng Quán Tƣớc lâu” của Vƣơng Chi Hoán. Bài “Giữa đƣờng đáp thuyền đi huyện Ung Ninh” của Bác có hai câu cuối: “Lƣỡng ngạn hƣơng thôn trù mật thậm. Giang tâm ngƣ phủ điếu thuyền khinh” (Làng xóm ven sông đông đúc thế. Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh) rất gần với hai câu: “Lƣỡng ngạn viên thanh đề bất tận. Khinh chu dĩ quá vạn trùng san” (Hai bên bờ sông tiếng vƣợn kêu không ngớt. Thuyền nhẹ tênh tênh đã vƣợt núi muôn trùng) trong bài “Tảo phát Bạch Đế Thành” của Lý Bạch. Bài “Trung thu II” của Bác có tứ thơ “Tâm tùy thu nguyệt cộng du du” (Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu) là bắt nguồn từ tứ thơ “Tâm tùy hồ thủy cộng du du” (Lòng ta cứ man mác theo nƣớc hồ mênh mông) trong bài “Tống Lƣơng Lục” của Trƣơng Duyệt, thi sĩ thời Khai–Nguyên, Thiên–Bảo, Thịnh–Đƣờng. Nếu trong bài “Tống Lƣơng Lục” Trƣơng Duyệt tỏ ra bất lực trƣớc sự ƣớc mong của mình (Vân đạo thần tiên bất khả tiếp) thì trong bài “Trung thu II” của Bác, mặc dù “Chẳng đƣợc tự do mà thƣởng nguyệt” nhƣng Ngƣời
  • 43. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 43 vẫn đạt đƣợc mong ƣớc theo cách riêng đầy lạc quan, yêu đời của mình là “lòng theo vời vợi mảnh trăng thu”… Trong các nhà thơ đời Đƣờng, Bác Hồ yêu mến và kính phục nhất là Đỗ Phủ. Trong “Di chúc”, Bác đã nhắc đến Đỗ Phủ: Ông Đỗ Phủ là ngƣời làm thơ rất nổi tiếng ở Trung Quốc, đời nhà Đƣờng có câu: “Nhân sinh thất thập cổ lai hi” (đời ngƣời sống 70 xƣa nay hiếm). Câu thơ mà Bác trích là từ bài “Khúc giang” của Đỗ Phủ. Bài “Khúc giang” của Đỗ Phủ có hai câu là: “Tửu trái tầm thƣờng hành xứ hữu, Nhân sinh thất thập cổ lai hi” (Nợ rƣợu thƣờng thƣờng đi đến đâu cũng mắc phải, đời ngƣời sống 70 xƣa nay hiếm). Bác Hồ không trích câu trên mà chỉ trích câu thơ sau của Đỗ Phủ để nói lên quy luật của cuộc đời. Trong bài “Thất tửu” Bác lại có câu phảng phất giọng thơ của Đỗ Phủ trong bài “Khúc giang”. Câu thơ của Bác là: “Nhân vị ngũ tuần thƣờng thán lão” (Ngƣời đời thƣờng chƣa đến năm mƣơi đã than già). Từ những dẫn chứng này có thể thấy Bác là ngƣời tâm đắc và yêu mến thơ Đỗ Phủ nhƣ thế nào! Đối với thơ ca cổ điển Trung Hoa thái độ của Bác là tiếp thu về mặt hình thức và sáng tạo về mặt nội dung hay nói một cách khác, Bác vận dụng từ ngữ, ý tứ, thi liệu trong thơ Đƣờng – Tống, từ đó thay đổi, cải biến để diễn tả nội dung mới phù hợp với cách cảm, cách nghĩ độc đáo của Bác. Ai cũng biết bài “Đăng Quán Tƣớc lâu” của Vƣơng Chi Hoán là một bài thơ rất nổi tiếng hay cả về ý và lời. Câu thơ “Dục cùng thiên lý mục. Cảnh thƣớng nhất tằng lâu” (Muốn tầm mắt nhìn thấu nghìn dặm, hãy lên cao một tầng lầu) của Vƣơng Chi Hoán là tả chiều cao và chiều rộng của không gian nhƣng chƣa nói đƣợc cái tình ngƣời. Trong bài “Nạn hữu xuy địch” (Nghe bạn tù thổi sáo) dựa theo tứ thơ của Vƣơng Chi Hoán nhƣng Bác diễn tả theo cách riêng của mình. Cách riêng ấy là tình cảm, lòng thƣơng ngƣời vô hạn của Bác trong chốn lao lung tù ngục: “Thiên lý quan hà khôn xiết nỗi, Lên lầu ai đó ngóng trông nhau”. Rõ ràng hai câu thơ của Bác rất sâu sắc về ý và lời. Câu thơ dàn trải về không gian, thời gian nhƣng nặng trĩu, sâu
  • 44. 44 | PGS.TS. Hồ Sĩ Hiệp lắng về nỗi đau của lòng ngƣời. Sự so sánh, liên tƣởng của Bác trong hai câu thơ này là đúng và hay. Một nhà thơ đời Đƣờng mà Bác cũng có nhiều thiện cảm, đó là Đỗ Mục (803 - 853). Ông tự Mục Chi, ngƣời Kinh Triệu, tỉnh Thiểm Tây, năm 26 tuổi đậu tiến sĩ, có ra làm quan. Ông giỏi về thơ thất ngôn, tuyệt cú, ý hàm súc, lời điêu luyện. Cùng với “Bạc Tần Hoài”, “Thanh minh” là một bài thơ nổi tiếng của ông đƣợc ngƣời đời sau truyền tụng. “Thanh minh” miêu tả tâm trạng u buồn, chán ngán và lạnh lẽo của kẻ hành nhân lữ thứ trong cảnh thời tiết của ngày thanh minh có mƣa phùn, rét buốt. Dựa vào tiêu đề của Đỗ Mục trong “Nhật ký trong tù” Bác cũng sáng tác một bài thơ chữ Hán tên là “Thanh minh”. Câu đầu của bài thơ Bác vẫn giữ nguyên câu thơ của Đỗ Mục (Thanh minh thời tiết vũ phân phân) nhƣng đến câu thơ thứ 2, 3 và 4 thì Bác thay đổi từ ngữ để diễn tả nội dung hoàn toàn mới (Lung lý – Tù nhân – Tự do – Vệ binh – Biện công môn). Ở đây không còn là hình ảnh của một ngƣời lữ thứ trong ngày thanh minh trời lạnh, giá rét, trời mƣa, cô đơn, u buồn chỉ biết tìm đến một quán rƣợu để giải sầu mà là hình ảnh của một ngƣời tù nhân ở chốn lao lung, khát khao cuộc sống tự do, có nhu cầu về quyền sống, quyền làm ngƣời. Đúng nhƣ nhận xét của Phan Nhuận, ngƣời dịch “Nhật ký trong tù” ra tiếng Pháp, tuy Bác thay đổi có 11 chữ nhƣng đã “thay đổi linh hồn của một bài thơ”. Có nghĩa là từ bút pháp hoàn toàn hiện thực của Đỗ Mục, Bác đã chuyển sang bút pháp lãng mạn cách mạng với nội dung hoàn toàn mới, mang tính thời sự và thời đại sâu sắc. Nói đến việc vận dụng sáng tạo và linh hoạt của Bác đối với thơ tuyệt cú Đƣờng luật phải nói đến trƣờng hợp Bác sử dụng tứ thơ độc đáo trong bài “Phong Kiều dạ bạc” của thi sĩ Trƣơng Kế (sống trƣớc sau năm 756), ngƣời thời Thịnh Đƣờng. Ông là ngƣời Tƣờng Châu, tỉnh Hồ Bắc, đậu tiến sĩ và có ra làm quan. Thơ của Trƣơng Kế chủ yếu là thơ tả cảnh. Bài “Phong Kiều dạ bạc” (Đêm đậu thuyền ở bến
  • 45. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 45 Phong Kiều) là thi phẩm tuyệt vời, không có thi tập và thi thoại nào là không nhắc đến. Tƣơng truyền rằng thi phẩm này của Trƣơng Kế, có đƣợc là do có cảm xúc dạt dào, bột phát của tác giả khi nghe tiếng chuông chùa Hàn San trong đêm khuya thanh vắng vọng đến thuyền khách đang đậu ở bến Phong Kiều. Trƣớc cảnh đẹp thiên nhiên vào rằm tháng giêng ở Việt Bắc, Bác đã sáng tác bài thơ “Nguyên tiêu”. Bài thơ của Bác mang “phong vị” của thơ Đƣờng rất rõ nét. Điều đáng nói ở đây là tƣ thế của hai thi nhân ở hai hoàn cảnh khác nhau. Cùng là ban đêm nhƣng thi sĩ Trƣơng Kế thì buồn sầu, thả hồn theo giấc ngủ trên chiếc thuyền con bé nhỏ trƣớc cảnh đèn chài lẻ loi và hàng cây phong lặng lẽ, trong khi đó đêm “Nguyên tiêu” Bác đang “giữa dòng bàn bạc việc quân”, bàn về việc quốc gia đại sự giữa đêm khuya trong núi rừng Việt Bắc. Tính chất thơ ca phƣơng Đông cổ kính, trang nghiêm, với sự cách tân hiện đại đƣợc Bác thể hiện trong thi phẩm tuyệt vời này. Cũng là cảnh ban đêm nhƣng cảnh trong bài “Phong Kiều dạ bạc” là “trăng tà, tiếng quạ kêu sƣơng”, là “lửa chài, cây bến sầu vƣơng giấc hồ”, là “thuyền ai đậu bến Cô Tô, nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San” còn cảnh trong bài “Nguyên tiêu” của Bác là cảnh “Rằm xuân lồng lộng trăng soi”, là “Sông xuân nƣớc lẫn màu trời thêm xuân”, là “Giữa dòng bàn bạc việc quân, khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền” ở núi rừng Việt Bắc trong những năm kháng chiến gian khổ. Bài “Tặng Trần Canh đồng chí” (Tặng đồng chí Trần Canh) của Bác là “họa” lại bài thơ “Lƣơng châu từ” của thi sĩ Vƣơng Hàn đời Đƣờng. Bài thơ này của Bác là làm tặng tƣớng Trần Canh thời kháng chiến ở Việt Bắc. Ông Quách Mạt Nhƣợc là một nhà văn, nhà thơ lớn của Trung Quốc. Khi ông sang thăm Việt Nam, vào thăm nơi ở và làm việc tại ngôi nhà sàn trong Phủ Chủ tịch Bác đã mời ông Quách Mạt Nhƣợc ngồi xuống sàn và cùng nói chuyện thơ văn. Bác nói với ông Quách Mạt Nhƣợc về ấn tƣợng sâu sắc của Bác với thơ văn Đƣờng – Tống.
  • 46. 46 | PGS.TS. Hồ Sĩ Hiệp Sau buổi tiếp, Bác đã tặng ông Quách Mạt Nhƣợc tập thơ “Nhật ký trong tù” vừa xuất bản. Bác đề nghị ông Quách Mạt Nhƣợc đọc và viết nhận xét. Sau khi về nƣớc, đọc đi đọc lại tập thơ viết bằng chữ Hán vô giá của Bác làm trên đất Trung Quốc năm xƣa ông Quách Mạt Nhƣợc đã viết bài đăng trên báo chí Trung Quốc và nhận xét: “Nhật ký trong tù “không phân biệt đâu là thơ Bác, đâu là thơ Đƣờng – Tống” và nhà thơ Viên Ƣng không hết lời ca ngợi Bác là “bậc đại trí, đại nhân và đại dũng”. HSH
  • 47. “VĂN DĨ TÂI ĐẠO” TRONG CÁC TÁC PHẨM ĐƯỜNG THI CÛA HỒ CHÍ MINH Ths. Đào Tuấn Anh Bảo tàng Hồ Chí Minh Khi đề cập đến giá trị của những tác phẩm thi ca Hồ Chí Minh mang khuynh hƣớng Đƣờng thi đƣợc thể hiện trong tập thơ Nhật ký trong tù, nhà văn, nhà thơ, Quách Mạt Nhƣợc của Trung Quốc đã nhận xét: “Nội dung là thổ lộ trực tiếp nỗi niềm tâm sự hoặc phản ánh những điều thấy trƣớc mắt, hầu hết đều không màu mè, tô vẽ, mà rõ ràng nhƣ lời nói. Có một số bài rất hay, nếu nhƣ đặt lẫn vào trong tập thơ của những thi nhân thời Đƣờng đời Tống, thì cũng khó mà phân biệt đƣợc”1 . Giá trị về mặt văn học nghệ thuật là nhƣ vậy, nhƣng cũng chính những tác phẩm này còn thể hiện một khía cạnh khác, đó chính là tôn chỉ, mục đích viết và sáng tác “văn dĩ tải đạo” của Hồ Chí Minh. Sinh thời mục đích viết trong suốt cuộc đời Hồ Chí Minh đƣợc Ngƣời xác định đó là viết cho ai, viết làm gì, viết cái gì và viết nhƣ thế nào. Vì vậy, trong những tác phẩm báo, thơ, những bài văn chính luận, Ngƣời đều viết rất ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với trình độ nhận thức của đa số ngƣời dân Việt Nam, đa phần những tác phẩm thể hiện mục đích tuyên truyền cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đều “muốn nói cho vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ. Chắc có ngƣời sẽ chê rằng văn 1 Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ, văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 2012, tập 3, tr. 327.
  • 48. 48 | ThS. Đào Tuấn Anh chƣơng cụt quằn. Vâng! Đây nói việc gì thì nói rất giản tiện, mau mắn, chắc chắn nhƣ 2 lần 2 là 4, không tô vẽ trang hoàng gì cả”2 , Với Hồ Chí Minh, Ngƣời nhận thấy: Thơ xƣa thƣờng chuộng thiên nhiên đẹp, Mây gió trăng hoa tuyết núi sông. Nhƣng, ở trong thời kỳ mà cả đất nƣớc đều chịu dƣới ách áp bức của chủ nghĩa đế quốc, thực dân thì nhà thơ cũng phải đứng lên chiến đấu, phải dùng ngòi bút của mình để đánh địch trên mặt trận văn hóa, tƣ tƣởng, vậy nên: “Nay ở trong thơ nên có thép, Nhà thơ cũng phải biết xung phong.” Bởi Ngƣời hiểu rằng “Hơn sáu mƣơi năm nay, đế quốc chủ nghĩa Pháp đạp trên đầu; hơn hai mƣơi triệu đồng bào hấp hối trong vòng tử địa. Phải kêu to, làm chóng để cứu lấy giống nòi, thì giờ đâu rảnh mà vẽ vời trau chuốt!...”3 Thực hiện tôn chỉ, mục đích đó nên đa phần thơ, văn, báo chí của Ngƣời đều đi vào lòng quần chúng nhân dân nhƣ những câu ca dao, hò vè, truyền khẩu ngắn gọn, thích ứng với những đối tƣợng tuyên truyền cụ thể thì có những tác phẩm cụ thể nhƣ: Hòn đá, Ca sợi chỉ, Con cáo và tổ ong, Ca binh lính,… Khi trò chuyện với M. Tkát Sốp, dịch giả Liên Xô về mối quan hệ giữa thơ và chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thẳng thắn chia sẻ: “Tôi vẫn nghĩ thơ và chính trị không thể tách rời - Ngƣời ngừng một chút rồi thêm - Còn, có phải thơ chính trị không “cao quý”? Và đó không phải là loại mà ngƣời làm thơ có thể viết hay? Có phải nhà thơ không cần làm những bài thơ liên quan đến việc đấu tranh với những cái xấu? Không, không thể thế đƣợc. Tôi cho rằng, không nghi ngờ gì cả, cũng nhƣ các ngành nghệ thuật khác, thơ phải gắn bó với sự nghiệp cách mạng; đó là điều khẳng định. Và những gì đặt ra chung 2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 2, tr.283. 3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 2, tr.283.
  • 49. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 49 quanh việc này có quan hệ đến nhân cách nhà thơ”4 . Rõ ràng, với Hồ Chí Minh, thơ và chính trị có một sự gắn kết đặc biệt, thơ ca không thể xa rời cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân, thi nhân không thể không thể hiện trách nhiệm trƣớc vận mệnh của nhân dân và của chính bản thân mình. Mục đích, tôn chỉ là nhƣ vậy, và trong các sáng tác của mình, Hồ Chí Minh cũng nghiêm túc thực hiện tinh thần thẳng thắn, ngắn gọn, cô đọng, súc tích, dễ xem, dễ hiểu, dễ thực hành. Tuy nhiên trong di sản thơ văn đồ sộ của Hồ Chí Minh không thể không đề cập tới một hệ thống các tác phẩm mang khuynh hƣớng Đƣờng thi, vừa có giá trị văn học, nghệ thuật cao, thể hiện trí tuệ, trình độ thơ văn đạt đến độ mẫu mực của Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là sự giãi bày những tâm tƣ, tình cảm, quan điểm sáng tác “văn dĩ tải đạo” của Ngƣời, dùng thơ văn làm phƣơng tiện truyền tải tƣ tƣởng, suy nghĩ của mình trƣớc thời cuộc. Sinh ra và lớn lên trên một vùng đất có mạch nguồn văn hóa nổi bật, lại đƣợc đào tạo những giá trị Hán học ngay từ thủa thiếu thời, vì vậy những ảnh hƣởng của thi ca Trung Quốc đã sớm thấm đẫm trong con ngƣời Hồ Chí Minh. Theo GS. TSKH, nhà phê bình lý luận văn học Phƣơng Lựu: “Có thể nói Bác là một vạch nối vĩ đại giữa chúng ta, những thế hệ con cháu của Ngƣời, với tất cả những cái gì tốt đẹp: chân, thiện, mỹ trong cuộc đời và trong lịch sử. Đồng chí Phạm Văn Đồng có nói, Bác đã Việt Nam hoá cho chúng ta tất cả những cái gì là tinh hoa của thế giới. Cũng có thể học tập cách nói ấy và thêm rằng Bác đã hiện đại hóa cho chúng ta những truyền thống tốt đẹp trong quá khứ dân tộc. Ở một mức độ nhất định, thơ Đƣờng là giao tiếp của hai mặt đó. Vì thơ Đƣờng là sản phẩm văn hoá của nƣớc láng giềng, nhƣng đã vốn gắn bó với di sản của ta. Ngƣời ta thƣờng nói đến cái cốt cách Á Đông, cái phong thái cổ điển ở Bác. Thơ Đƣờng đƣợc sử 4 Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ, văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 2012, tập 3, tr. 402.
  • 50. 50 | ThS. Đào Tuấn Anh dụng và đổi mới trong thơ Bác - chủ yếu là ở trong thơ chữ Hán - mặc dù ở một góc rất nhỏ, cũng góp phần nói lên cái cốt cách đó, cái phong thái đó”5 . Tuy vậy, cái chất thơ Đƣờng đó xét cho đến cùng cốt cũng chỉ để nói lên tinh thần và khí phách con ngƣời cách mạng Hồ Chí Minh, nói lên nỗi tâm tƣ và khát vọng của một ngƣời muốn đổi thay, cách mạng để xây dựng nên một thế giới, một đất nƣớc tốt đẹp hơn, vì vậy, ở khía cạnh nào đó, “nói thơ chữ Hán của Bác chịu ảnh hƣởng của Đƣờng thi, không bằng nói có sự gặp gỡ giữa phong cách Đƣờng thi với phong thái của Bác: ung dung, thanh thản, nhƣng kỳ vĩ sâu lắng”6 . Hồ Chí Minh cũng đồng thời thể hiện rõ là một thi nhân kiệt xuất, am tƣờng những giá trị văn hóa cổ kim của cả phƣơng Đông và phƣơng Tây, sự tài tình của Ngƣời là đã lồng ghép những giá trị tinh tế của văn hóa phƣơng Tây vào các tác phẩm Đƣờng thi phƣơng Đông. Dịch giả Phan Nhuận, ngƣời đã dịch tác phẩm Nhật ký trong tù ra tiếng Pháp đã nhận xét khá tinh tế về nội dung hình tƣợng trong hai bài Cấm hút thuốc lá và Tiết thanh minh nhƣ sau: “Trƣớc một tấm bảng đề cấm hút thuốc, một tên cai ngục tịch thu thuốc lá của tù nhân. Để bắt ngƣời ta tôn trọng pháp luật chăng? Không phải, để nhét cho đầy cái túi thuốc lá của nó. Đây là lối châm biếm Pháp: đòi hỏi, bƣớng bỉnh. Một tù nhân trƣớc cảnh mƣa phùn không ngớt, giam hãm tâm hồn trong hàng triệu sợi dây của một mối thất vọng ảo não. Vậy không nơi nào có lối thoát ƣ? Ngƣời cai ngục chỉ ra lối công đƣờng ở xa. Đó là nụ cƣời Anh”7 . Làm đƣợc điều đó, bởi Hồ Chí Minh đã là sự tích hợp các giá trị văn hóa không chỉ của phƣơng Đông mà còn cả các giá trị văn hóa phƣơng Tây, bởi khi nghiên cứu và tìm hiểu về các tác phẩm văn học của nhân loại, Ngƣời “thích đọc Sếch–pia (Shakespeare) và Đích–ken 5 Hồ Chí Minh tác gia, tác phẩm và nghệ thuật ngôn từ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2005, tr. 479. 6 Hồ Chí Minh tác gia, tác phẩm và nghệ thuật ngôn từ, Sđd, tr. 482. 7 Hồ Chí Minh tác gia, tác phẩm và nghệ thuật ngôn từ, Sđd, tr. 480.
  • 51. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bác Hồ với thơ Đường luật | 51 (Dickens) bằng tiếng Anh, Lỗ Tấn bằng tiếng Trung Hoa và Huy Gô (Hugo), Dôla (Zola) bằng tiếng Pháp”. Ngôn ngữ, đó chính là con đƣờng tốt nhất mà Hồ Chí Minh đã dùng để mở và đi vào khu vƣờn văn hóa của các quốc gia, học hỏi và làm giàu cho vốn hiểu biết của mình, đồng thời từ đó cũng xây dựng và định hình nên một khả năng độc lập trên cơ sở kế thừa tinh hoa của dân tộc và nhân loại trong những sáng tác của Ngƣời. Ngƣời có thể làm thơ mang phong cách Đƣờng thi bởi Ngƣời đã hiểu và làm chủ Đƣờng thi, hiểu và nắm vững văn hóa Trung Hoa, để từ đó, Ngƣời đã có thể sáng tạo trên cơ sở từ chính Đƣờng thi. Ngƣời thực sự trở thành một tác gia lớn của nền văn thơ hiện đại nƣớc nhà, trong những giá trị thi ca to lớn Hồ Chí Minh để lại, những tác phẩm Đƣờng thi của Ngƣời thực sự là mẫu mực về thơ văn. Những thi phẩm của Hồ Chí Minh mặc dù thi liệu vẫn mang tính truyền thống, nội dung có thể vẫn là những cảnh lƣu luyến khi chia tay, nỗi niềm xúc động trƣớc phong cảnh đẹp, hay nỗi nhớ bạn hữu, quê hƣơng của ngƣời thi sĩ đang phải chịu cảnh tha hƣơng,… “Ngày đi bạn tiễn đến bên sông, Hẹn bạn về khi lúa đỏ đồng; Nay gặt đã xong, cày đã khắp, Quê ngƣời, tôi vẫn chốn lao lung.” Hay: “Núi ấp ôm mây, mây ấp núi, Lòng sông gƣơng sáng, bụi không mờ; Bồi hồi dạo bƣớc Tây Phong lĩnh, Trông lại trời Nam, nhớ bạn xƣa.” Nhƣng hồn trong đó lại thể hiện chí khí của ngƣời cách mạng hiện đại, tinh thần đấu tranh không mệt mỏi trƣớc những đe dọa từ thực tế đang phải chịu đựng, và niềm tin sắt đá không gì lay chuyển nổi của Ngƣời.