Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Thơ đường luật trào phúng Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 135 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THU HÀ

THƠ ĐƯỜNG LUẬT TRÀO PHÚNG
HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2019

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THU HÀ

THƠ ĐƯỜNG LUẬT TRÀO PHÚNG
HỒ CHÍ MINH
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN THỊ LỆ THANH



THÁI NGUYÊN - 2019
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là kết quả nghiên cứu của cá nhân
tôi. Các số liệu và tài liệu được trích dẫn trong luận văn là trung thực. Kết
quả nghiên cứu này không trùng với bất cứ công trình nào đã được công bố
trước đó.
Tôi xin chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019
Tác giả

Nguyễn Thu Hà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




ii

LỜI CẢM ƠN
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo của trường Đại học Khoa
học đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình học

tập và nghiên cứu và thực hiện đề tài tại trường.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Trần Thị Lệ Thanh
- người đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ em trong quá trình học tập,
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn BGH, các thầy cô giáo trường
THPT Hùng An, người thân trong gia đình, bạn bè đã giúp đỡ, tạo điều kiện
cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài.
Trong quá trình hoàn thiện đề tài, luận văn không thể tránh khỏi những
thiếu sót, em rất mong nhận được những đóng góp chỉ bảo của thầy cô và các
bạn để khóa luận hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, ngày

tháng 5 năm 2019

Tác giả luận văn

Nguyễn Thu Hà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT


Viết đầy đủ

Viết tắt

1

Đường luật

ĐL

2

Nhà xuất bản

Nxb

3

Sách đã dẫn

Sđd

4

Thơ Đường luật

TĐL

5


Trào phúng

TP

6

Trang

Tr

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




iv

MỤC LỤC
Trang
TRANG BÌA PHỤ
LỜI CAM ĐOAN.............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................iii
MỤC LỤC ....................................................................................................... iv
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu .................................................................... 2
3. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 11

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 11
6. Cấu trúc luận văn ......................................................................................... 11
7. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 11
NỘI DUNG ..................................................................................................... 12
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

12

1.1. Khái niệm “Thơ trào phúng” và “Thơ Đường luật trào phúng” .............. 12
1.1.1. Khái niệm “Thơ trào phúng” ................................................................. 12
1.1.2. Khái niệm “Thơ Đường luật trào phúng” .............................................. 16
1.2. Sự vận động và phát triển của thơ Đường luật trào phúng Việt Nam ...... 19
1.2.1. Thơ Đường luật trào phúng Việt Nam trước thế kỉ XX ........................ 19
1.2.2. Thơ Đường luật trào phúng Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XX ................. 34
1.3. Khái quát về thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh............................ 36
1.3.1. Cuộc đời, sự nghiệp và quan điểm sáng tác của Hồ Chí Minh ............. 36
1.3.2. Bối cảnh sáng tác thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh ................. 44
1.3.3. Cảm hứng sáng tác thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh .............. 46
Tiểu kết Chương 1 ......................................................................................... 54
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




v

CHƯƠNG 2: NÉT MỚI TRONG THƠ ĐƯỜNG LUẬT TRÀO
PHÚNG HỒ CHÍ MINH............................................................................... 55
2.1. Thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh – một hiện tượng thẩm mỹ
độc đáo ..................................................................................................... 55

2.1.1. Cấu trúc thẩm mỹ trong không gian ngục tù ......................................... 55
2.1.2. Khả năng phát hiện giá trị thẩm mỹ từ những cái xấu, những điều
bình thường ............................................................................................ 61
2.2. Thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh – một hình thái phê phán đặc
biệt có cảm xúc ........................................................................................ 68
2.3. Thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh - một phương tiện phát hiện
những mâu thuẫn, xung đột ..................................................................... 76
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 84
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM VỀ BÚT PHÁP VÀ NGÔN NGỮ TRONG
THƠ ĐƯỜNG LUẬT TRÀO PHÚNG HỒ CHÍ MINH............................ 85
3.1. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và hiện đại ................... 85
3.1.1. Đặc trưng nghệ thuật của thể thơ Đường luật ....................................... 85
3.1.2. Đề tài ...................................................................................................... 91
3.1.3. Hình ảnh thơ .......................................................................................... 93
3.1.4. Nhân vật trữ tình .................................................................................... 96
3.2. Những đặc điểm về ngôn ngữ trong thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh 100
3.2.1. Đặc điểm về từ ngữ.............................................................................. 100
3.2.2. Đặc điểm về cú pháp ........................................................................... 107
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 110
KẾT LUẬN................................................................................................... 111
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................... 114
PHỤ LỤC

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thơ Đường luật là một trong số những thể thơ tồn tại lâu đời nhất
trong lịch sử văn học viết Việt Nam. Nếu những bài thơ thiền thời nhà Lý (thế
kỷ X) được cho là những sáng tác thơ Đường luật Việt Nam đầu tiên, thì
những bài thơ Đường luật của Hồ Chí Minh (thế kỷ XX) lại được ghi nhận
như là thành tích cuối cùng của thể loại này. Có khá nhiều khía cạnh trong thơ
Đường luật của Bác được các học giả trong và ngoài nước nghiên cứu, đánh
giá và đưa ra những kết luận xác đáng. Tuy nhiên về khả năng kết hợp giữa
thơ Đường luật và loại hình trào phúng của Bác thì lại chưa thấy có công trình
nào tương xứng. Nghiên cứu thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh vì thế
vẫn được xem là vấn đề còn bỏ ngỏ.
1.2. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những tác gia văn học Việt Nam
thường xuyên sử dụng yếu tố trào phúng trong sáng tác văn học. Với mỗi thể
loại, Bác đều tìm ra một cách kết hợp riêng, khiến tiếng cười trở nên vô cùng
phong phú, đa dạng. Trong truyện ký (Lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922),
Vi hành (1923), Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu (1925), Bác đã
đem đến tiếng cười trào phúng tuy nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhưng thâm thúy, sâu
cay. Trong thơ chữ Hán (chủ yếu là thơ Đường luật), Bác lại cho thấy sự kết
hợp tài tình giữa một hình thức nghiêm chỉnh với một cách nói không nghiêm
chỉnh đạt hiệu quả như thế nào. Làm rõ được nét phong cách độc đáo trong
thơ Đường luật trào phùng của Bác chính là góp phần nhận diện những thành
tựu trong sáng tác của Bác nói chung.
Mặc dù có rất nhiều công trình, bài viết về thơ Đường luật nói chung và
tập Nhật kí trong tù nói riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng cho tới nay,
việc nghiên cứu thơ Đường luật trào phúng của Người vẫn là vấn đề còn bỏ
ngỏ. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài Thơ đường luật trào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





2

phúng Hồ Chí Minh làm nội dung nghiên cứu với mong muốn góp phần tạo
thêm một tư liệu mới về thơ đường luật trào phúng Hồ Chí Minh.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Qua quá trình thu thập tư liệu tham khảo, chúng tôi nhận thấy, có một số
ít công trình, bài viết bàn về thơ Đường luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy
nhiên, trong số ấy, chưa có công trình, bài viết hay tài liệu nào nghiên cứu
chuyên biệt về nghệ thuật trào phúng trong thơ Đường luật của Người.
Các nguồn tư liệu được chúng tôi quan tâm chủ yếu khảo cứu, tập hợp,
giới thiệu một số nội dung liên quan đến thơ Hồ Chí Minh như sau:
2.1. Các công trình, bài viết về thơ đường luật Hồ Chí Minh
Trong công trình nghiên cứu Đường thi từ góc nhìn vòng đời tác phẩm:
Lý luận phê bình văn học, nhà giáo Lê Đình Sơn đã dành một chương để bàn
về thi phẩm Đường luật Hồ Chí Minh nối xưa và nay. Tác giả đi sâu tìm hiểu
về bối cảnh lịch sử, đặc điểm kết cấu và ngôn ngữ thơ Đường luật Hồ Chí
Minh; sự đổi mới trong sáng tác thơ Đường luật Hồ Chí Minh; Hiệu ứng giáo
dục từ một số vần thơ Bác Hồ và Thơ Đường luật Hồ Chí Minh về người lính
vệ quốc [32].
Cuốn Thơ Đường luật Việt Nam - Hành trình đất nước (Hương Thu chủ biên) đã khái quát quá trình phát triển và hình thành của thể thơ Đường
luật Việt Nam từ thế kỉ XX đến nay, trong đó có giới thiệu một số bài thơ
Đường luật chọn lọc Hồ Chí Minh [37].
Tại Hội thảo khoa học “Bác Hồ với thơ Đường Luật Việt Nam” do
Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam, Bảo
tàng Hồ Chí Minh, Hội thơ Đường luật Việt Nam phối hợp tổ chức diễn ra
ngày 23/10/2015, tại Hà Nội, Lê Đình Sơn, giảng viên khoa Ngữ văn Đại
học Vinh nhấn mạnh: “Bác Hồ đã thể hiện sự phá cách thơ tứ tuyệt ở nhiều

hình thức khác nhau. Có những bài thơ Bác phá luật bằng trắc, phá luật thơ
như Văn cảnh, Báo tiệp. Có những bài thơ làm người đọc ngạc nhiên trước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




3

hiện tượng đổi mới thơ tứ tuyệt luật Đường như bài Vô đề, bài ngụ ngôn tứ
tuyệt bằng chữ Hán ở đầu tập thơ Nhật ký trong tù, sau đó là nhiều tác phẩm
khác. Qua đó cho thấy, Bác đã tiếp thu một cách sáng tạo di sản thơ Đường
Trung Quốc, làm cho thể loại này ngày càng phong phú hơn” [51].
Trong bài viết Hồ Chí Minh với thơ Đường luật, ThS. Võ Quang Huy đã
nhận xét: “Tập thơ Nhật ký trong tù gồm 133 bài thơ tứ tuyệt và thất ngôn bát
cú được viết bằng chữ Hán thể hiện sự am hiểu tuyệt vời về Hán tự cũng như
thể thơ Đường luật của Bác. Đọc Nhật kí trong tù, ta nhận ra sự ảnh hưởng
đậm đặc của chất Đường thi, bút pháp cổ điển trong phong cách thơ của
Người. Nghệ thuật đối, bút pháp ẩn dụ, điệp từ đã được Bác sử dụng rất tài
tình và khéo léo” [52].
Trong bài Chủ tịch Hồ Chí Minh với thơ Đường luật, nhà thơ Huỳnh
Đức Trung cho rằng, “làm thơ Đường đã khó, làm thơ Đường luật bằng chữ
Hán lại càng khó hơn. Ở Nước ta thời xưa chỉ có những nhà Nho uyên thâm,
hay những thầy đồ giỏi chữ Hán mới làm được, như Vua Thánh Tông, vua Tự
Đức hay những nhà nho nổi tiếng như Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn
Khuyến, Cao Bá Quát, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Đình
Chiểu, Bà Huyện Thanh Quan. Bác là người sau cùng làm thơ Đường luật
bằng chữ Hán ở Việt Nam ta”. “Bác có rất nhiều bài thơ viết bằng chữ Hán,
và khá thành công trong lối chơi tứ tuyệt ngắn gọn, súc tích, sâu sắc chẳng
thua gì thơ đời Đường Trung Quốc”[53].

Bài viết Quanh mối quan hệ giữa Bác Hồ với thơ Đường luật của GS.
Nguyễn Khắc Phi đã khẳng định: nhiều bài viết và công trình trước nay đã cố
gắng làm nổi bật tinh thần dân tộc và tính hiện đại sâu sắc trong thơ Đường
luật của Bác, song vẫn cần bàn luận thêm về mối quan hệ giữa Người, thơ của
Người với thơ Đường luật. Trong bài viết, tác giả trình bày khá chi tiết về tiêu
chí để xác định Thơ Đường luật trong thơ Bác, về việc vận dụng thể thơ
Đường luật của Hồ Chí Minh, về bài thơ Khán Thiên gia thi hữu cảm, bài viết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




4

khép lại với kết luận: “chiếm lĩnh được mảng tuyệt cú là một trong những
cách nắm bắt được nhanh nhất, hữu hiệu nhất cái tinh tuý của thơ Đường!
Thơ tuyệt cú của Bác Hồ là kết quả của một quá trình tiếp biến độc đáo cái
tinh tuý ấy trên một nền tảng tư tưởng mới, trong một điều kiện lịch sử
mới”[28].
TS. Phạm Thị Xuân Châu - Chi hội Thơ Đường luật tỉnh Điện Biên,
trong bài Bút pháp của Bác Hồ trong sáng tác thơ Đường Luật, đã nhận xét:
“Dù khi cải biên, phá cách, biến thể, hay khi giữ nguyên luật lệ của thơ
Đường, thì thơ Bác vẫn thể hiện đúng con người Bác: không thụ động, không
sao chép, máy móc, mà luôn cơ động, linh hoạt, độc lập trong tư duy và tự
chủ trong sáng tạo. Chính điều đó làm nên phong cách thơ Đường luật của
Bác: cổ điển mà hiện đại, truyền thống mà cách mạng, làm đẹp thêm cho di
sản thơ Đường luật của dân tộc” [50].
Trong bài “Thơ Đường luật chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, TS.
Nguyễn Minh San - Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn hiến Việt Nam đi sâu tìm
hiểu về di sản thơ Đường luật bằng chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhận

xét về thơ Đường luật bằng chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tác giả viết:
“Những bài thơ Đường luật làm bằng chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
tiêu biểu là tập Nhật ký trong tù, là những hòn ngọc văn hóa chói lọi trong di
sản văn hóa vĩ đại của dân tộc ta. Di sản thơ này đã góp phần khẳng định: Chủ
tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ thiên tài của Đảng ta, dân tộc ta; một con người
Đại nhân, Đại trí, Đại dũng; một Danh nhân Văn hóa Thế giới; là Bác Hồ
muôn vàn kính yêu của dân tộc ta” [56].
Như vậy, các công trình, bài viết trên mới chỉ dừng lại ở phạm vi thơ
Đường luật của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà chưa đi sâu tìm hiểu về thơ Đường
luật trào phúng của Người. Nhưng, những hướng nghiên cứu trong các công
trình, bài viết trên là những gợi ý quí báu để tác giả luận văn thực hiện nhiệm
vụ mà đề tài đã nêu ở trên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




5

2.2. Các công trình, bài viết về nghệ thuật trào phúng trong thơ Hồ Chí
Minh
Từ lâu, nghệ thuật trào phúng trong các tác phẩm văn chương, báo chí
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được đề cập, nghiên cứu đây đó trong các bài
viết, công trình. Tuy nhiên, các công trình bài viết về nghệ thuật trào phúng
trong thơ Hồ Chí Minh lại khá hiếm.
Cuốn sách Tiếng cười trào phúng Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn
Thanh Tú là công trình nghiên cứu đầu tiên trình bày một cách hệ thống,
phong phú và toàn diện nhất các khía cạnh của nghệ thuật trào phúng Hồ Chí
Minh, từ tác phẩm văn xuôi đến tác phẩm thơ và tác phẩm báo chí, chính
luận. Với hơn 400 trang sách, PGS.TS Nguyễn Thanh Tú đã đi vào khám

phá nhiều khía cạnh, chi tiết của tiếng cười trào phúng Hồ Chí Minh qua
những luận điểm: Hình thức tương phản, Nghệ thuật kéo độc giả vào truyện,
Nguyên tắc suồng sã, Kịch hoá trần thuật, Mâu thuẫn trào phúng, Nguyên
tắc “lột mặt nạ”, Ngụ ngôn trào phúng, Phương thức nhại, Ẩn dụ trào phúng,
So sánh trào phúng, Chơi chữ trào phúng, Tập cổ, lẩy Kiều.
Trong quá trình phân tích, để làm rõ những luận điểm của mình, tác giả
luôn chọn được những ví dụ rất điển hình. Chẳng hạn, ví dụ về hình thức
tương phản nhân vật: “Hình tượng người tù trong Nhật kí luôn tương phản với
hình tượng người tiên, người tự do, người khách quý… giữa tư cách tù nhân
và tư cách thi nhân: “Ngâm thơ ta vốn không ham, / Nhưng vì trong ngục biết
làm chi đây” (Mở đầu tập nhật ký)”. Hay ví dụ về mâu thuẫn giữa lời nói và
bản chất hành động của chủ nghĩa thực dân về vấn đề nhân quyền: “Chính vì
quyền con người mà hàng triệu con người đã bị giết hại trong thời đại chiến.
Cái quyền mà họ đã hi sinh vì nó, cùng với những xác chết thảm thương của
họ, nay bị vùi sâu vào lãng quên.
Hồi đó, các chính sách còn gào to hơn cả tiếng đại bác cho khắp bốn
phương gầm trời nghe: quyền! quyền! quyền! Nhưng lập tức, sau khi cuộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




6

chém giết đã chấm dứt, lập tức sau khi tai hoạ đã qua, thì không còn ai nghe
thấy nói đến cái con vật ấy nữa. Ở Véc-xây, ở Giơ-ne-vơ, ở Bu-lô-nhơ cũng
như ở Oa-sinh-tơn quyền con người đã được thay thế bằng than đen, than đá,
dầu hoả, thuộc địa”. Hoặc những so sánh tạo hình, gợi cảm:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





7

“Nhà lao mà giống tiểu gia đình,
Gạo, củi, muối, dầu tự sắm sanh;
Trước mỗi phòng giam bày một bếp,
Suốt ngày lụi cụi với cơm, canh”
(Nhà lao Quả Đức – Huệ Chi dịch) [43].
Năm 1974, nhà xuất bản Văn học cho phát hành cuốn Thơ văn trào
phúng Việt Nam do nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh sưu tầm, biên soạn. Đây
là cuốn sách giới thiệu một cách khá đầy đủ về thơ văn trào phúng Việt Nam
từ thế kỉ XIII đến năm 1945, trong đó có nói đến thơ văn trào phúng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Ở phần thứ ba - Thơ văn trào phúng hiện đại (từ đầu thế
kỉ đến 1945) - tác giả đã nhận xét: “Nhìn tổng thể, nụ cười châm biếm trong
phong cách Nguyễn Ái Quốc là một nụ cười đa dạng. Đây vừa là nụ cười tố
cáo, đánh gục kẻ thù, nụ cười thức tỉnh đồng đội, nụ cười lạc quan vô úy của
bản thân” [15, tr.382]. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở mức độ
giới thiệu khái quát về nội dung châm biếm sắc sảo và một vài tác phẩm văn
thơ có yếu tố trào phúng của Hồ Chí Minh mà chưa đi sâu nghiên cứu về
nghệ thuật trào phúng trong thơ Đường luật của Người.
2.3. Các công trình, bài viết về nghệ thuật trào phúng trong thơ Đường luật
Hồ Chí Minh
Trong Tiếng cười trào phúng Hồ Chí Minh, nhà nghiên cứu Nguyễn
Thanh Tú có dành một số trang nghiên cứu về nghệ thuật trào phúng trong thơ
Đường luật Hồ Chí Minh qua tập Nhật kí trong tù. Tác giả phát hiện: “Tiếng
cười ẩn dụ trong Nhật kí trong tù luôn là tiếng cười phủ nhận hiện thực để
vươn tới một thế giới khác, thế giới của sự sang trọng, tự do, thế giới của

nghệ thuật, thế giới của tình yêu thương, tôn trọng tuyệt đối giữa con người
với con người”[43].
Ở chương II, phần thứ nhất của cuốn “Suy nghĩ mới về Nhật kí trong tù”,
GS. Nguyễn Huệ Chi, Đặng Thị Hảo, Nguyễn Phạm Hùng đã viết: “bút pháp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




8

trào lộng của Nhật kí trong tù vẫn mang được nét chung của nghệ thuật gây
cười có tính hướng ngoại truyền thống, là việc tạo dựng sự đối lập, xung đột
giữa nội dung của đối tượng (xấu xa, hèn kém, lạc hậu, mất sức sống…) với
hình thức của chính đối tượng (hào nhoáng, đẹp đẽ, cao thượng, thanh nhã…)
trong trạng thái bất ngờ nhất làm bật ra tiếng cười”[45, tr.169-170]. Cuối bài
viết, các tác giả nhận định: “Đến với Nhật kí trong tù là đến với một tiếng
cười mới – tiếng cười hướng nội mà nghệ thuật của nó có đóng góp một phần
không nhỏ vào sự phát triển của nghệ thuật trào lộng trong văn học Việt
Nam” [45, tr. 183].
Chương XXIV, cuốn giáo trình Văn học Việt Nam (1900-1945) đã giới
thiệu khái quát những nét đặc sắc về nội dung và giá trị cách tân trong nghệ
thuật ở các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc, trong đó có tập Nhật kí trong tù.
Nhận xét về nghệ thuật châm biếm của tập nhật kí, các tác giả viết: “Nhật kí
trong tù đã kế tục nghệ thuật châm biếm trong các bài văn xuôi của Nguyễn
Ái Quốc. Đối tượng châm biếm ở đây là chế độ Quốc dân đảng tàn bạo, thối
nát” [5, tr.648].
Bài Chất trào lộng trong bài thơ “Lai Tân” (Rút trong Nhật kí trong tù)
của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: Giọng điệu của bài thơ bình thản,
khoan thai tạo cảm giác như đang nghe một câu chuyện đã làm cho tinh thần

của bài thơ dễ ngấm sâu vào lòng người đọc. Bằng việc sử dụng bút pháp
châm biếm, trào lộng, tác giả đã vạch trần bộ mặt của một xã hội đang kỳ rối
ren, mọt ruỗng qua đó lên tiếng bảo vệ công lí và bình đẳng cho đời sống con
người [54].
Trần Xuân Toàn trong bài viết Tính hài hước, châm biếm trong tập thơ
“Nhật kí trong tù của Bác Hồ cũng nhận xét: “hài hước châm biếm ở “Nhật
ký trong tù” là rất đa dạng. Một mặt đó là sự đa dạng về sắc thái, về cung bậc.
Đây vừa là nụ cười tố cáo đả kích, đánh gục kẻ thù, vừa là nụ cười châm biếm,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




9

mỉa mai vào những hiện tượng, tính cách lỗi thời, phản động, vừa là nụ cười
thức tỉnh đồng đội và là nụ cười lạc quan của bản thân” [41].
Nhận xét về tiếng cười trong Nhật kí trong tù của Bác, trong bài Tiếng
cười lạc quan trong “Nhật kí trong tù”, Lê Xuân đã viết: tiếng cười
trong Nhật ký trong tù cũng có nghĩa là tìm hiểu một nét về phong cách Hồ
Chí Minh, một nét về thi pháp trong thơ Bác. Tiếng cười lạc quan của Bác
luôn thể hiện sự làm chủ tình huống, nắm chắc chân lý. Tiếng cười ấy còn
hàm chứa chất “thép” và chất “tình” để đem lại niềm hứng khởi cho người
đọc, người nghe và ngược lại kẻ bị cười khó tìm đường chối cãi, nguỵ biện.
Tiếng cười ấy có khi nhắm vào kẻ thù, có khi tự diễu bản thân, hoặc ngụ ý
khuyên răn người khác để họ vươn tới cái đẹp, cái cao cả, xoá đi cái xấu, cái
lạc hậu, thấp hèn. Tiếng cười trong Nhật ký trong tù càng làm sáng đẹp hơn ý
nghĩa nhân văn sâu sắc, chủ nghĩa nhân đạo cao cả trong con người Hồ Chí
Minh [55].
Như vậy, tìm hiểu về văn thơ của Người đã có rất nhiều các công trình

nghiên cứu. Tuy nhiên, để bao quát và chuyên sâu về Thơ Đường luật trào
phúng Hồ Chí Minh thì luận văn là công trình đầu tiên làm rõ vấn đề này.
Những bài viết và công trình trên đã giải quyết các vấn đề liên quan đến đề tài
một cách khoa học. Đây chính là những chỉ dẫn, góp ý quý báu cho việc triển
khai nội dung nghiên cứu của luận văn.
Trên cơ sở kế thừa những tài liệu đã có, tác giả luận văn tập trung tìm
hiểu về thơ Đường luật trào phúng của Người và những đóng góp của Chủ
tịch Hồ Chí Minh vào sự nghiệp văn học nước nhà.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá nghệ thuật trào phúng trong thơ
Đường luật Hồ Chí Minh, từ đó xác định những đóng góp tiêu biểu của thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




10

Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh trong trong nền văn học Việt Nam
hiện đại nói chung, dòng thơ Đường luật trào phúng Việt Nam nửa đầu thế
kỷ XX nói riêng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




11

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những bài thơ trào phúng được
sáng tác bằng thể thơ Đường luật của Hồ Chí Minh.
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu 45 bài thơ Đường
luật trào phúng trong Nhật ký Trong tù của Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ mục đích nghiên cứu, luận văn sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau, trong đó có các phương pháp chính:
- Phương pháp thống kê, mô tả: chúng tôi tiến hành thống kê, tổng hợp
dẫn chứng, số liệu trong những tác phẩm thơ Đường luật trào phúng trong tập
Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh và những tài liệu liên quan đến đề tài.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: so sánh với thơ Đường luật trào phúng
của một số nhà thơ khác. Qua đó thấy được những đóng góp mới mẻ của thơ
Đường luật trào phúng Hồ Chủ Tịch.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp và khái quát hóa.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được chia
thành 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung
Chương 2. Nét mới trong thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh
Chương 3. Đặc điểm bút pháp và ngôn ngữ trong thơ Đường luật trào
phúng Hồ Chí Minh
7. Đóng góp của luận văn
- Lần đầu tiên thơ Đường luật trào phúng Hồ Chí Minh được khảo sát,
phân tích một cách hệ thống
- Kết luận của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy
thơ Đường luật trào phúng trong tập Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh ở
trường phổ thông và chuyên nghiệp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





12

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm “Thơ trào phúng” và “Thơ Đường luật trào phúng”

1.1.1. Khái niệm “Thơ trào phúng”
Để hiểu khái niệm “Thơ trào phúng”, trước hết, chúng tôi xin cắt nghĩa
hai khái niệm con: thơ và trào phúng.
Trên thế giới, từ xưa đến nay, có nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác
nhau về khái niệm thơ.
Percy Bysshe Shelley – nhà thơ, nhà triết học Anh, một trong những nhà
thơ lớn nhất của thế kỷ XIX nhận định: “Thơ thực sự là một điều gì đó rất
thiêng liêng. Nó vừa là trung tâm, đồng thời là chu vi của tri thức, là bao gồm
các khoa học, nguồn gốc và thành quả của các hệ thống tư tưởng. Đó là sự hồi
sinh của mùa xuân…”
Theo Robert Frost, một nhà thơ Mỹ từng bốn lần đoạt giải Pulitzer:
“Thơ ra đời khi cảm xúc đã tìm thấy suy nghĩ của mình và suy nghĩ thì đã
tìm ra lời để diễn đạt chúng”; “Thơ ca là những gì đã thất lạc trong quá trình
chuyển đổi”.
Nhà thơ người Italia, Salvatore Quasimodo nổi tiếng nhờ những vần thơ
trữ tình với ngôn ngữ tinh lọc và đẹp đẽ một cách chuẩn mực. Ông nói: “Thơ
là sự mặc khải rằng người làm thơ tin rằng cảm xúc của họ chính là tiếng lòng
của độc giả”.
Edgar Allan Poe được gọi là “nhà thơ điên” cũng là một cây bút kỳ tài
trong thể loại văn chương trinh thám và hình sự. Ông là tác giả của những
phát ngôn nổi tiếng như: “Nỗi buồn là giọng điệu phù hợp nhất của thơ ca”;
“Tôi định nghĩa rất ngắn về thơ ca, ngôn ngữ thơ là nhịp điệu thẫm mỹ. Trọng

tài duy nhất của chúng là khẩu vị. Trí khôn và nhận thức chỉ khiến nó trở
thành một tài sản. Trừ yếu tố tình cờ, thơ không quan tâm tới bất cứ điều gì,
dù là nghĩa vụ hay chân lý”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




13

T.S. Eliot, chủ nhân giải Nobel 1948 cũng là nhà thơ vĩ đại của nước
Anh thế kỷ XX. Sinh thời, ông từng nói: “Thơ không phải là một vòng quay
chậm rãi của cảm xúc mà là một lối thoát của cảm xúc, không phải là sự biểu
hiện của tính cách, nhưng một lối thoát cho cá tính. Nhưng, tất nhiên là chỉ
những người có cá tính và cảm xúc biết ý nghĩa của việc muốn thoát khỏi
những điều này”.
Ở Việt Nam, “thi ngôn chí” là quan niệm chính thống về thơ trong Nho
giáo đã chi phối thơ suốt chiều dài nền Văn học trung đại. Cho đến những
năm gần đây, khái niệm về thơ vẫn được nhiều nhà nghiên cứu định nghĩa
như Hà Minh Đức, Phan Ngọc…
Trong cuốn “Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại”, GS Hà
Minh Đức đã khảo sát hàng trăm định nghĩa về thơ để xác định được quan
niệm đúng đắn về thơ. Với ông, thơ là sự kết tinh cái đẹp của tâm hồn và tạo
vật, bài thơ hay là sự kết tinh của kết tinh. Vì thế, khi phê bình thơ, ông luôn
tìm những điểm cốt lõi tạo nên phong cách riêng của nhà thơ đó. GS Hà Minh
Đức coi trọng các tư liệu cuộc sống trong thơ và tìm ra mối liên hệ giữa nhà
văn và cuộc sống, tác phẩm và cuộc sống: “Thiếu đi chất liệu thực tế phong
phú thì cho dù một cách nhìn đúng vẫn chưa đủ tạo nên thơ hay”[6].
Còn theo Phan Ngọc, “Thơ là một cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái
đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc và phải suy nghĩ do chính

hình thức tổ chức ngôn ngữ này”. Ông lý giải: “nói rằng hình thức tổ chức
ngôn ngữ của thơ hết sức quái đản là nói rằng trong ngôn ngữ giao tiếp không
ai tổ chức ngôn ngữ như thế. Trong ngôn ngữ hàng ngày, chẳng ai tổ chức
ngôn ngữ theo âm tiết, vần, nhịp, khổ, số câu, niêm, luật... hết”… [25, tr.23].
“Thơ là hình thức nghệ thuật dùng từ trong ngôn ngữ làm chất liệu, và sự
chọn lọc từ cũng như tổ hợp của chúng được sắp xếp dưới hình
thức lôgíc nhất định tạo nên hình ảnh hay gợi cảm âm thanh có tính thẩm
mỹ cho người đọc, người nghe. Từ thơ thường được đi kèm với từ câu để chỉ
một câu thơ, hay với từ bài để chỉ một bài thơ. Một câu thơ là một hình thức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




14

câu cô đọng, truyền đạt một hoặc nhiều hình ảnh, có ý nghĩa cho người đọc,
và hoàn chỉnh trong cấu trúc ngữ pháp. Một câu thơ có thể đứng nguyên một
mình. Một bài thơ là tổ hợp của các câu thơ. Tính cô đọng trong số lượng từ,
tính tượng hình và dư âm thanh nhạc trong thơ biến nó thành một hình thức
nghệ thuật độc đáo, tách biệt hẳn khỏi các hình thức nghệ thuật khác” [57].
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Thơ là hình thức sáng tác văn
học phản ánh cuộc sống, thể hiện tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng
ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu”[10]. Định nghĩa
này đã định danh một cách đầy đủ về thơ ở cả nội dung và hình thức nghệ
thuật. Đặc biệt, đã khu biệt được đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ thơ với ngôn
ngữ trong những thể loại văn học khác.
Như vậy, tuy có nhiều định nghĩa về thơ, song chữ thơ vẫn là một câu
hỏi mở chưa có đáp án thống nhất.
Trào phúng là một từ gốc Hán gồm hai từ tố: trào - nghĩa là cười nhạo,

giễu cợt và phúng - nghĩa là lời bóng gió bẩy để khen chê, khuyên răn hoặc
dùng cái này để nói cái khác. Trong thói quen ngôn ngữ, trào phúng bao hàm
cả hai yếu tố: tiếng cười và răn bảo, đấu tranh chống lại cái xấu.
Theo “Từ điển tiếng Việt”, trào phúng “có tính chất gây cười để châm
biếm, phê phán” [26]. Còn theo “Từ điển thuật ngữ Văn học”, “trào phúng
là một dạng đặc biệt của sáng tác văn học và đồng thời cũng là một nguyên
tắc nghệ thuật, trong đó các yếu tố của tiếng cười mỉa mai, châm biếm,
phóng đại, khoa trương, hài hước… được sử dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố
cáo, phản kháng những cái tiêu cực, xấu xa, lỗi thời độc ác trong xã hội”
[10, tr. 1124].
Nói cách khác, trào phúng là nghệ thuật gây ra tiếng cười nhằm châm
biếm, phê phán xã hội. Để gây được tiếng cười trào phúng, điều quan trọng
nhất là tạo được tình huống mâu thuẫn và tổ chức thơ làm nổi bật mâu thuẫn.
Theo các nhà mĩ học, cái hài là một trong những phạm trù mĩ học, được bật ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




15

khi người ta phát hiện mâu thuẫn trái với lẽ tự nhiên. Mâu thuẫn đó có thể là
những rung động cảm xúc, sáng tạo; sự phê phán, giáo huấn và tiếng cười.
Thơ trào phúng còn được gọi là thơ châm biếm (cũng có khi là thơ đả
kích, thơ hài hước, thơ nhại, thơ vui…) mang những đặc điểm của thơ trữ tình
như hình tượng cảm xúc, giọng điệu, vần, nhạc điệu… nhưng do mục đích
phúng thích xã hội nên thơ trào phúng hướng tới việc tạo ra tiếng cười châm
biếm, đả kích với đối tượng trào phúng (cái xấu, cái vô dụng không có giá trị
của con người hay văn học). Vì thế, thơ trào phúng luôn là vũ khí sắc bén để
đấu tranh với kẻ thù.

Như vậy, thơ trào phúng là loại thơ dùng ngôn từ ví von, bóng gió để
châm biếm, đả kích những mâu thuẫn, những thói hư, tật xấu trái với đạo đức,
trái với lương tri, không chỉ lên án những bất công, xấu xa của xã hội mà các
nhà thơ còn tự cười chính mình, tự chê trách chính bản thân mình. Trong đó,
tiếng cười trào phúng mang nhiều sắc thái, nhiều cung bậc khác nhau như Hài
hước, châm biếm, đả kích.
Hài hước là một dạng của cái hài, có mức độ phê phán nhẹ nhàng chủ
yếu gây cười, mua vui trên cơ sở vạch ra sự mất hài hòa cân đối giữa nội dung
và hình thức, bản chất và hiện tượng đặc biệt là lí tưởng và thực tế… Hài
hước khác cái nghịch dị (một kiểu tổ chức hình tượng nghệ thuật dựa vào sự
huyễn tưởng, tiếng cười, sự phóng đại [10; tr.203] ở tính chất kín đáo, thâm
trầm không lộ liễu, khác cái châm biếm ở mức độ nhẹ nhàng, đùa vui, thiện ý.
Hài hước bao hàm giọng điệu cười vui, vô tư, mang ý nghĩa giải trí, giải thoát
con người khỏi sự trang nghiêm căng thẳng của đời thường, hoặc xuất hiện
khi con người có ý muốn hoàn thiện mình hay hoàn thiện hơn một cái mới
nào đó vừa ra đời còn chưa mang hình hài hoàn chỉnh.
Châm biếm là “dùng lời lẽ sắc sảo, cay độc, thâm thúy để vạch trần thực
chất xấu xa của những đối tượng và những hiện tượng này hay hiện tượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




16

khác của xã hội” [10, tr.37]. Châm biếm thường sử dụng biện pháp nghệ
thuật: cường điệu, phóng đại, ngoa dụ, nghịch lý, giễu nhại… làm sống dậy
những giá trị chân, thiện, mĩ. Nếu hài hước chủ yếu khai thác mâu thuẫn trong
quan hệ có tính chất riêng tư, cá nhân, thái độ chế giễu thường đi kèm với nỗi
buồn, nước mắt thì châm biếm chủ yếu khai thác mâu thuẫn trong quan hệ

công dân, xã hội, thái độ chế giễu luôn song hành cùng sự công phẫn, tố cáo.
Không nên hiểu châm biếm là phê phán, tố cáo, trào phúng. Châm biếm là
biểu hiện của phê phán nhưng nó là biểu hiện cực đoan của phê phán.
Đả kích là chỉ trích, phản đối gay gắt hoặc dùng hành động chống lại làm
cho bị tổn hại. Nếu châm biếm là sự phủ định chưa hoàn toàn thì đả kích phủ
định hoàn toàn, phủ nhận một cách triệt để, quyết liệt. Tiếng cười đả kích
thường gắn với một lý tưởng xã hội tích cực, tiến bộ.
Tóm lại, hài hước, châm biếm, đả kích là ba sắc điệu được sắp xếp
theo cấp độ của tiếng cười trào phúng có ý nghĩa trong việc thể hiện thái độ
của người viết với đối tượng mình hướng đến. Tuy nhiên, trong thực tế, sự
biểu hiện của tiếng cười trong thơ trào phúng không phải lúc nào cũng
phân định rạch ròi, mà có sự chuyển hóa linh hoạt từ sắc điệu này sang sắc
điệu khác. Do đó, việc phân chia các sắc điệu trong thơ trào phúng chỉ có
giá trị tương đối.

1.1.2. Khái niệm “Thơ Đường luật trào phúng”
Thơ Đường luật hay Thơ luật Đường là thể thơ Đường cách luật có
nguồn gốc từ thơ ca thời nhà Đường (Trung Quốc). Không chỉ phát triển
mạnh mẽ tại chính quê hương của nó, thơ Đường luật còn lan tỏa ra nhiều
quốc gia lân bang, trong đó có Việt Nam. Với tư cách là một thể loại tiêu biểu
nhất của thơ Đường nói riêng và tinh hoa thi ca Trung Hoa nói chung, thơ
Đường luật còn được gọi với tên thơ cận thể để đối lập với thơ cổ thể vốn
không theo cách luật ấy.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




17


Về khái niệm thơ Đường luật, “Từ điển thuật ngữ văn học” định nghĩa:
“Thơ Đường luật, còn gọi là thơ cận thể. Thể thơ cách luật ngũ ngôn hoặc thất
ngôn được đặt ra từ đời Đường ở Trung Quốc. Thơ Đường luật có ba dạng
chính: thơ bát cú (mỗi bài tám câu), thơ tứ tuyệt (mỗi bài bốn câu) và thơ bài
luật (dạng kéo dài của thơ Đường luật), trong đó thơ bát cú, nhất là thơ thất
ngôn bát cú (mỗi bài tám câu, mỗi câu bảy chữ) được coi là dạng cơ bản, vì từ
nó có thể suy ra các dạng khác của thơ Đường luật. Vì vậy, chỉ cần nêu rõ cấu
tạo của thơ thất ngôn bát cú là đủ” [10, tr.23].
Trên cơ sở những thành tựu nghiên cứu đã có, luận văn xin nhắc lại một
số đặc điểm của thơ Đường luật. Với dung lượng câu chữ hạn chế, thơ Đường
luật thường nắm bắt những khoảnh khắc đặc biệt của tâm trạng và hiện thực
nhưng lại có ý nghĩa lớn đối với con người. Hơn nữa, do yêu cầu của niêm,
luật, đối mà thơ Đường luật có một cấu trúc âm thanh rất độc đáo, đó là sự
phối hợp của âm thanh trầm bổng tạo nên chất nhạc du dương vừa dễ thuộc,
vừa dễ nhớ và lôi cuốn người đọc.
Thơ Đường luật trào phúng là một loại hình đặc biệt của sáng tác văn
học - tuân thủ nghiêm về niêm, luật, đối chặt chẽ của thơ Đường luật nhưng
hướng tới phản ánh, phơi bày bản chất xấu xa, giả tạo ẩn sâu trong cái vẻ bề
ngoài hào nhoáng bằng tiếng cười với nhiều cung bậc: châm biếm, đả kích,
mỉa mai, bông đùa, hài hước. Do đó, tiếng cười trong thơ Đường luật trào
phúng thường gắn liền với ý nghĩa phê phán xã hội.
Khi nghiên cứu thơ Đường luật trào phúng, ta cần phân biệt hai vấn đề
về mức độ trào phúng: yếu tố trào phúng và tác phẩm trào phúng. Tác phẩm
trào phúng có mục đích chính là trào phúng, xây dựng được hình tượng trào
phúng hoàn chỉnh. Các tác giả xây dựng hình tượng trào phúng thông qua thái
độ và tâm trạng của quan của mình. Khi chủ thể trữ tình đồng nhất với hình
tượng nghệ thuật trong trào phúng thì xuất hiện thơ tự trào. Khi hình tượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





18

nghệ thuật là đối tượng khách thể, ta có thơ trào phúng khách thể. Đó là tác
phẩm trào phúng hoàn chỉnh. Còn yếu tố trào phúng là trong một tác phẩm, có
đoạn, có câu bật ra tiếng cười có ý nghĩa trào phúng mà mục đích chính
không phải gây ra tiếng cười để khẳng định hay phủ định một điều gì.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




×