Tải bản đầy đủ (.doc) (144 trang)

HÁT RU TRONG đời SỐNG văn hóa dân GIAN của ĐỒNG bào tày, THÁI, MƯỜNG ở MIỀN núi PHÍA bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (638.88 KB, 144 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
BÙI THỊ MINH LAN

HÁT RU TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
DÂN GIAN CỦA ĐỒNG BÀO TÀY, THÁI, MƯỜNG
Ở MIỀN NÚI PHÍA BẮC
Chuyên ngành: VIỆT NAM HỌC
Mã số : 60.22.01.13

LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN MẠNH TIẾN

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được
công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả

Bùi Thị Minh Lan


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn đến PGS.TS Trần Mạnh Tiến – người Thày đã tận
tình giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám Hiệu trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, Ban Chủ nhiệm khoa Việt Nam Học, phòng Đào tạo Sau Đại học đã
tạo điều kiện cho em hoàn thành khóa học.


Xin cảm ơn bạn bè, người thân đã luôn luôn giúp đỡ động viên em trong thời
gian học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày 30 tháng 6 năm 2014
Tác giả

Bùi Thị Minh Lan


MỤC LỤC
HÀ NỘI - 2014............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu..................................................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..............................................................................................................4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................................................................5
6. Nguồn tư liệu..............................................................................................................................................5
7. Đóng góp của đề tài....................................................................................................................................5
8. Cấu trúc của luận văn..................................................................................................................................6
1. Khái quát về hát ru trong đời sống văn hóa dân gian.............................................................................7
1.1. Khái quát về văn hóa dân gian ................................................................................................................7
Khi bàn về vấn đề văn hóa dân gian, nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh nêu ý kiến: “Văn hóa dân gian là cội
nguồn của văn hóa dân tộc hay còn gọi là văn hóa gốc, văn hóa mẹ… Có con người là có văn hóa, có dân
tộc là có văn hóa. Văn hóa đó trước nhất là văn hóa dân gian, là văn hóa của quần chúng nhân dân. Qua
văn hóa dân gian, nhân dân lao động tự biểu hiện mình, tự phản ánh cuộc sống của mình” [33:466]. Như
vậy văn hóa là một phạm trù ý thức xã hội luôn gắn với sự tồn tại của con người, con người có ý thức về
nền văn hóa đó, đồng thời văn hóa dân gian là cội nguồn của mỗi dân tộc. Văn hóa dân gian rất đa dạng
và phong phú bao gồm: văn học dân gian (cổ tích, thần thoại, ca dao, tục ngữ), nghệ thuật dân gian (kiến
trúc, hội họa, âm nhạc dân gian), tri thức dân gian (tri thức về tự nhiên, con người, y học dân gian, về
ứng xử xã hội, lao động sản xuất), tín ngưỡng, phong tục và lễ hội dân gian. Tất cả tạo nên đời sống dân
gian muôn màu muôn vẻ bao gồm những giá trị văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần trong sinh hoạt

cộng đồng của nhân dân lao động. ................................................................................................................7
Trong các giá trị tiêu biểu nhất của văn hóa dân gian phải kể đến văn học dân gian. Từ bao đời nay, các
dân tộc trên thế giới đều sản sinh ra những sáng tác dựa trên ngôn ngữ của quần chúng nhân dân và lưu
truyền từ đời này sang đời khác, vùng này sang vùng khác dưới hình thức truyền miệng. Các nhà nghiên
cứu đều cho những lời ca tiếng hát của nhân dân lao động làm ra là nghệ thuật dân gian. Khi bàn về văn
học dân gian, người ta thường đề cập đến các khía cạnh như chất liệu ngôn từ, hình thức diễn xướng,
hình tượng nghệ thuật, đối tượng thưởng thức,v.v... Do vậy, văn học dân gian chính là các tác phẩm
nghệ thuật ngôn từ truyền miệng, là sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể nhằm mục đích phục vụ các
nhu cầu sinh hoạt khác nhau của đời sống cộng đồng trong đó có hát ru. ..................................................7
1.2. Khái niệm về hát ru..................................................................................................................................8
2. Cơ sở xã hội của sự hình thành hát ru ................................................................................................ 10
2.1. Cơ sở lao động sản xuất.........................................................................................................................10
2.2. Cơ sở ngôn ngữ......................................................................................................................................14
2.3. Đặc điểm xã hội của tộc người .............................................................................................................15
3. Môi trường diễn xướng của hát ru Tày, Thái, Mường.........................................................................20
3.1. Hát ru trong gia đình..............................................................................................................................20
3.2. Lao động sản xuất..................................................................................................................................23
3.3. Sinh hoạt văn hóa cộng đồng ................................................................................................................25
Ngày nay, khi điều kiện sống thay đổi, thành tựu khoa học công nghệ thông tin đã nâng cao chất
lượng cuộc sống. Nhu cầu hưởng thụ tinh thần của con người cũng thay đổi, các loại hình âm nhạc
đáp ứng đầy đủ cho mọi tầng lớp trong xã hội. Thực trạng này dẫn đến thái độ thờ ơ với giá trị tinh
thần mà hát ru mang lại. Thế hệ trẻ ngày nay có quan niệm nuôi con theo khoa học, thậm chí “thai
giáo” bằng nhạc không lời, nhưng ít ai thấy được mặt trái của nó đó là mối liên hệ trực tiếp của tình
mẫu tử dẫn tới mối quan hệ giữa con người với con người ngày càng xa cách, nhiều sinh hoạt hồn
nhiên mất đi. Do đó hát ru ngày càng trở nên mờ nhạt trong nền văn hóa hiện đại, nhất là nơi đô thị
và đang lan rộng đến mọi miền quê. Cuộc sống hiện đại, gấp gáp đã lấy hết thời gian của người mẹ.


Lâu ngày không bồi đắp nên “bản năng” hát ru của người mẹ cũng mờ nhạt, xa lạ dần với những hình
ảnh thân quen: cánh đồng, nương đồi, dòng sông, vầng trăng, các con vật quen thuộc và tình cảm yêu

thương dành cho trẻ qua lời ru muôn thuở. Có người quan niệm, ngày nay không cần thiết phải hát ru
theo thói quen của dân gian, mà chỉ cần tạo thói quen ăn ngủ đúng giờ. Như vậy, trí thông minh của
trẻ thơ có thể được phát huy nhưng phần cảm xúc thì thiếu hụt. Nếu con người lớn lên sống khô khan
không cảm xúc thì chẳng khác nào các sinh vật tự nhiên? Ngoài ra chưa kể đến việc lạm dụng hát ru,
hay hát ru bị “sân khấu hóa”, nhằm thay thế hát ru tự nhiên bằng các phương tiện kĩ thuật. Điều đó
không sát với nhu cầu sinh hoạt thường nhật của việc sinh dưỡng trẻ thơ. Gần đây, hát ru đã được
các tổ chức văn hóa trong nước quan tâm đến công tác bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc. Tại Hà
Nội, “Ngày hội Gia đình Việt Nam” được tổ chức ngày 28 tháng 6 hàng năm với sự góp mặt của nhiều
gia đình và những làn điệu hát ru con. Thành phố Hồ Chí Minh cũng là nơi tổ chức thành công Liên
hoan Hát ru, nhận được sự quan tâm, ủng hộ của nhiều tổ chức và cá nhân. Mục đích, nội dung của
các cuộc giao lưu này nhằm gợi nhớ lại âm hưởng trữ tình cùng những giá trị văn hóa truyền thống
chứa đựng trong lời hát ru. .....................................................................................................................26
Tiểu kết chương 1:........................................................................................................................................27

BỨC TRANH HIỆN THỰC MUÔN MÀU TRONG HÁT RU...............................28
CỦA ĐỒNG BÀO TÀY, THÁI, MƯỜNG MIỀN NÚI PHÍA BẮC.......................28
1. Nguồn cảm hứng trong hát ru của đồng bào Tày, Thái, Mường...........................................................28
2. Đặc điểm chung về nội dung các bài hát ru Tày, Thái, Mường trong đời sống văn hóa dân gian ...........29
2.1. Tình mẫu tử thiêng liêng trong lời ru của đồng bào Tày, Thái, Mường ...............................................29
2.3. Hát ru phản ánh chân dung cuộc sống lao động của đồng bào Tày, Thái, Mường..............................35
2.3.1. Bức tranh hoạt động gieo trồng ....................................................................................................35
2.3.2. Bức tranh hoạt động chăn nuôi, săn bắt hái lượm .......................................................................38
2.3.3. Nghề thủ công truyền thống .........................................................................................................40
2.4. Hình ảnh đời sống xã hội trong lời ru của đồng bào Tày, Thái, Mường................................................42
3. Những màu sắc riêng trong các bài hát ru Tày, Thái, Mường...............................................................49
3.1. Màu sắc riêng trong hát ru của đồng bàoTày........................................................................................49
Thế giới trong các bài đồng dao là thế giới tự nhiên, gần gũi các tạo vật quen thuộc với sinh hoạt hằng
ngày của đồng bào như quả gắm, con chim, con cá, con trâu, con gà v.v... Lời hát đồng dao thể hiện mối
giao hòa giữa con người với tự nhiên diễn ra liên tục và thuận chiều. Lấy lời hát đồng dao để hát ru vừa
thể hiện vốn liếng dân ca phong phú của người hát, thể hiện tình cảm của con người với quê hương và

truyền thống dân tộc.............................................................................................................................. 51
3.2. Màu sắc riêng trong hát ru con của đồng bào Thái...............................................................................51
3.3. Màu sắc riêng trong hát ru con của đồng bào Mường .........................................................................54
4. Ý nghĩa của các bài hát ru ................................................................................................................... 60
4.1. Hát ru là mạch nguồn nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ..........................................................................60
4.2. Hát ru là sợi dây kết nối tâm hồn các thế hệ.........................................................................................62
4.3. Hát ru góp phần hình thành ngôn ngữ, tri thức sơ khai về cuộc sống..................................................64

CHƯƠNG 3................................................................................................................71
NGHỆ THUẬT HÁT RU TRONG SINH HOẠT.....................................................71
VĂN HÓA DÂN GIAN CỦA ĐỒNG BÀO TÀY, THÁI, MƯỜNG......................71
1. Hát ru là phương thức biểu lộ cảm xúc của thơ ca trữ tình..................................................................71
2. Các sắc màu ngôn ngữ của hát ru Tày, Thái, Mường ...........................................................................73


3. Âm điệu trong lời ru Tày, Thái, Mường ............................................................................................... 80
Tiểu kết chương 3.........................................................................................................................................82

KẾT LUẬN................................................................................................................83


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hát ru là một loại hình nghệ thuật dân gian tồn tại lâu đời trong lịch sử văn
hóa của dân tộc. Hơn nửa thế kỉ qua đã có nhiều công trình sưu tầm văn học dân
gian đề cập tới hát ru nhưng phần lớn ở các vùng đồng bằng gắn với văn hóa dân
gian của đồng bào Kinh. Riêng mảng hát ru của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa
được các nhà nghiên cứu khảo sát có hệ thống. Qua việc tìm hiểu các sinh hoạt văn
hóa dân gian ở các tỉnh miền núi phía Bắc, chúng tôi thấy hát ru có ý nghĩa quan
trọng đặc biệt trong đời sống văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số, cần phải

nghiên cứu và bảo tồn, phát huy những giá trị tinh thần đó.
Hát ru là một vẻ đẹp văn hóa, đậm chất trữ tình và là phương tiện hữu hiệu
để diễn tả tâm hồn, tình cảm con người qua nhiều thế hệ của mọi cộng đồng dân tộc.
Hát ru là một nếp sống trở thành nhu cầu thường nhật của đồng bào các dân tộc
thiểu số và tạo nên bản sắc văn hóa từng khu vực.
Theo số liệu của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc UNFPA (2011), Các dân tộc
Việt Nam – Phân tích các chỉ tiêu chính từ cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở
Việt Nam 2009 và Tổng cục Thống kê Việt Nam: Người Kinh là tộc người có số
dân đông: 73.594.427 người chiếm 85,7274% số dân cả nước, tiếp sau lần lượt là ba
tộc người Tày, Thái, Mường với số dân cũng khá đông, cụ thể như sau: Cộng đồng
Tày có 1.626.392 người = 1,8945% dân số cả nước, người Thái có 1.550.423 người
= 1,806%, người Mường có 1.2868.963 người = 1,4782% tổng số dân cư [102:7].
Miền núi phía Bắc là một trong những khu vực tập trung nhiều tộc người thiểu số
sinh sống với nhiều giá trị văn hóa đặc sắc nhưng tiêu biểu hơn là văn hóa các dân
tộc Tày, Thái, Mường.
Hát ru của đồng bào các dân tộc thiểu số phía Bắc như: người Tày, người
Thái, người Mường, … rất phong phú nhưng chưa được nghiên cứu thành các công
trình khoa học có quy mô như hát ru vùng đồng bằng Bắc bộ và Nam bộ. Những bài
hát ru và làn điệu của đồng bào Việt Bắc và Tây Bắc chưa được khái quát hệ thống
hoàn chỉnh trong nền văn hóa dân gian. Do một phần những rào cản về ngôn ngữ và
quan niệm chưa đầy đủ về loại hình nghệ thuật này cho nên hoạt động nghiên cứu

1


về hát ru của các dân tộc thiểu số còn mờ nhạt, tất cả mới dừng lại ở một số công
trình sưu tầm lẻ tẻ và dịch ra tiếng phổ thông. Cho nên đây là vấn đề còn bỏ trống,
việc đi sâu vào nghiên cứu hát ru miền núi sẽ mang lại nhiều ý nghĩa về chiều sâu
của văn hóa Việt Nam. Hát ru cho thấy vẻ đẹp của tâm hồn, tình cảm giàu bản sắc
dân tộc.

Hát ru là loại hình nghệ thuật đặc sắc phản ánh truyền thống văn hóa các dân
tộc gắn liền với đời sống sinh hoạt mỗi cộng đồng từ ngàn đời xưa. Việc nghiên cứu
về hát ru sẽ quảng bá được những tinh hoa văn hóa đa dạng của Việt Nam đến bạn
bè quốc tế đồng thời cũng giúp cho các em học sinh hiểu sâu sắc hơn truyền thống
văn hóa dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Hát ru là một loại hình nghệ thuật dân gian được một số nhà nghiên cứu quan
tâm đến từ trước cách mạng tháng 8/1945 đến nay. Ta có thể điểm qua các công
trình tiêu biểu như sau:
Công trình Những câu hát xanh (1937) của Lâm Tuyền Khách (Lan Khai) in
trên Tạp chí Tao Đàn (Số 8/1939) đã sưu tầm, phiên âm và phiên dịch, giới thiệu
các bài ca dân gian của đồng bào Tày trong đó có những bài hát ru bằng đồng dao.
Đó là một trong những công trình đầu tiên ở Việt Nam sớm chú ý đến thơ ca dân
gian của đồng bào dân tộc thiểu số. Trong đó có đoạn viết: “Nếu câu thơ đầu tiên
của nhân loại là một lời cầu nguyện gửi trước đấng Thần Minh thì câu hát đầu tiên
của nhân loại có lẽ là lời hát ru con, ru em đã thốt ra ở cái miệng tươi xinh của một
người mẹ, một người chị khi bồng bế con em” [29:54].
Công trình Thơ ca dân gian Việt Nam của Bùi Văn Nguyên, Đỗ Bình Trị
(1969), Nxb Giáo dục, Hà Nội có đề cập tới thể loại hát ru trong dân ca Việt Nam
nhưng mới chỉ tập trung vào dân ca dân tộc Kinh, còn hát ru của các dân tộc thiểu
số chưa được quan tâm đúng mức.
Công trình Thi ca bình dân Việt Nam (4 tập) của Nguyễn Tấn Long, Phan
Canh (1969 – 1971), Nxb Sống mới, Sài Gòn có nói tới hát ru trong dân ca đồng
bằng Bắc Bộ và Nam Bộ, nhưng còn thiếu dân ca các dân tộc thiểu số ở các tỉnh
phía Nam và Tây Nguyên.

2


Công trình Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan (1971), Nxb

Khoa học Xã hội cũng nhắc tới thể loại dân ca hát ru, nhưng chỉ ở vùng đồng bằng
với trung du, còn lại các loại hình thơ ca dân gian trong đó có hát ru của đồng bào
các dân tộc thiểu số còn bỏ trống.
Công trình Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam, Nxb Đại học
và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội của Võ Quang Nhơn (1983) có đề cập tới dân
ca của đồng bào các dân tộc thiểu số nhưng còn sơ lược. Thể loại hát ru chưa được
người nghiên cứu quan tâm đầy đủ.
Công trình Mẹ hát ru của Nguyễn Hữu Thọ (1987), Nxb Phụ nữ, Hà Nội có
giới thiệu các lời ru truyền thống của đồng bào Kinh, nhưng thiếu mảng hát ru của
đồng bào miền núi.
Vào những năm cuối thế kỉ XX trở đi, phần thơ ca dân gian trong đó có hát
ru đã được nhiều tác giả đề cập tới ít nhiều trong các công trình nghiên cứu như:
Hoàng Tiến Tựu với công trình Bình giảng ca dao, Nxb Giáo dục (1992); Phạm
Thu Yến với bài viết Những thế giới nghệ thuật trong ca dao, Nxb Giáo dục (1998);
Lê Gia với Tâm hồn mẹ Việt Nam, Nxb Văn nghệ Tp Hồ Chí Minh (1993); Nguyễn
Xuân Kính, Phan Đăng Nhật với Kho tàng ca dao người Việt, Nxb Văn hóa Thông
tin (2001); Đặng Nghiêm Vạn với Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam,
Nxb Đà Nẵng (2002); Lư Nhất Vũ, Lê Giang với Hát ru Việt Nam, Nxb Trẻ (2005);
Lệ Vân với công trình Hát ru ba miền, Nxb Phụ nữ (2006)… Các bài viết và các
công trình đã đề cập tới tính chất đa dạng phong phú của thể loại hát ru ở các vùng
đồng bằng Bắc – Trung – Nam, nhưng các công trình trên chưa tiến hành giới thiệu
diện mạo của loại hình hát ru của mọi cộng đồng dân tộc thiểu số.
Những năm gần đây có một số tác giả mở rộng thêm việc tìm hiểu diện mạo
hát ru của các dân tộc thiểu số, nhưng chưa thành những công trình chuyên biệt
như: Hát ru các dân tộc: Khái quát về hát ru (CD), H. Văn hóa (2005); Hát ru các
dân tộc (Đĩa tiếng), H. Văn hóa dân tộc (2007); Hát ru Việt sử thi ngàn năm Thăng
Long – Hà Nội của Phạm Thiên Thư, Nxb Thanh niên (2010)… Hát ru đã được lựa
chọn thu băng đĩa nhờ các kĩ thuật công nghệ mới để phổ biến rộng đến bạn đọc
khắp nơi.


3


Tóm lại: Các công trình trên là kết quả của quá trình sưu tầm nghiên cứu của
các tác giả nhưng chủ yếu tập trung vào các mảng sáng tác dân gian của người
Kinh. Mảng hát ru các dân tộc thiểu số còn thưa vắng. Hát ru chưa được xem như
một loại hình nghệ thuật độc đáo do đó chưa phát huy hết giá trị vốn có của nó.
Hiện nay nhiều bài hát ru đã được sưu tầm và ghi vào đĩa CD, công việc phổ biến
thuận lợi hơn. Song nhu cầu tập hợp và nghiên cứu về hát ru theo khu vực hay từng
cộng đồng sắc tộc một cách đầy đủ vẫn chưa được các cơ quan chức năng thực hiện
đầy đủ, do đó chưa thấy được vẻ đẹp muôn màu qua loại hình nghệ thuật dân gian
có từ lâu đời của cộng đồng các dân tộc làm nên bản sắc Việt Nam giàu chất trữ
tình và lòng nhân ái.
Hi vọng rằng đề tài “Hát ru trong đời sống văn hóa dân gian của đồng bào
Tày, Thái, Mường ở miền núi phía Bắc” sẽ góp thêm một cách nhìn về giá trị văn
hóa của các dân tộc thiểu số trong nền văn hóa Việt Nam đa dạng và thống nhất.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Hát ru có ở mọi dân tộc và có tính qui mô, song trong khuôn khổ của luận
văn Cao học, chúng tôi chủ trương tập trung vào những tác phẩm hát ru dân gian
tiêu biểu của các dân tộc thiểu số Tày, Thái, Mường ở miền núi phía Bắc đã xuất
bản mà chúng tôi có điều kiện quan tâm nhiều hơn. Qua các tác phẩm này, chúng
tôi sẽ khai thác cả nội dung và hình thức diễn xướng để làm nổi bật các giá trị của
hát ru trong sinh hoạt của đồng bào miền núi. Ngoài ra chúng tôi cũng tiến hành
điền dã sưu tầm một số bài hát ru và làn điệu của loại hình nghệ thuật này để hoàn
thiện công trình nghiên cứu. Trong quá trình khảo sát khi cần thiết chúng tôi sẽ so
sánh, liên hệ với các bài hát ru của đồng bào Kinh ở đồng bằng Bắc bộ và Nam bộ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích, đánh giá cả nội dung, hình thức và phương thức diễn xướng các
bài hát ru dân gian trong đời sống của đồng bào các dân tộc Tày, Thái, Mường ở
các vùng núi phía Bắc.

Công trình của chúng tôi sẽ cố gắng chỉ ra những giá trị độc đáo mang bản
sắc dân tộc qua lời ru và môi trường hát ru của đồng bào dân tộc thiểu số, giúp bạn
đọc hiểu thêm về vẻ đẹp muôn màu của văn hóa Việt Nam trong đó có hát ru – một
loại hình nghệ thuật có sức sống bền bỉ trong lịch sử dân tộc.

4


5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi chủ trương phối hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu văn học dân gian: ngoài việc khảo sát các văn bản
hát ru đã xuất bản, chúng tôi kết hợp tìm hiểu các bài hát ru được lưu truyền trong
dân gian và phương thức diễn xướng, phân tích, bình giảng các bài hát ru theo chủ
đề để rút ra ý nghĩa khái quát của hát ru trong đời sống văn hóa dân gian Việt Nam
nói chung và hát ru của đồng bào Tày, Thái, Mường ở miền núi phía Bắc nói riêng.
Phương pháp văn hóa học: nghiên cứu hát ru từ góc nhìn văn hóa để thấy
mối quan hệ sinh hoạt tinh thần trong lao động sản xuất của cư dân nông nghiệp
miền núi.
Phương pháp lịch sử: nghiên cứu quá trình hình thành, tồn tại và phát triển
của loại hình hát ru trong đời sống văn hóa Việt Nam.
Phương pháp so sánh: đối sánh hát ru của đồng bào Tày, Thái, Mường với
hát ru của dân tộc Kinh để tìm ra đặc điểm chung và riêng về nội dung và hình thức
của các làn điệu bài ca. Đồng thời tìm hiểu những điểm riêng biệt trong hát ru của
ba dân tộc Tày, Thái, Mường.
Phương pháp liên ngành: sử dụng thích hợp kết quả nghiên cứu của các
ngành có liên quan như văn học dân gian và âm nhạc dân gian để làm nổi bật giá trị
văn hóa của hát ru.
Phương pháp điền dã dân tộc học: quan sát, ghi chép, phỏng vấn sâu tại địa
bàn có đồng bào Tày, Thái, Mường sinh sống để khám phá đặc điểm của hát ru.

6. Nguồn tư liệu
Trong đề tài có sử dụng các tài liệu đã công bố bao gồm danh mục công trình
nghiên cứu và sưu tầm của nhiều tác giả. Ngoài ra còn có các tài liệu chúng tôi trực
tiếp sưu tầm qua quá trình điền dã ở các bản làng có cộng đồng các dân tộc Tày,
Thái, Mường.
7. Đóng góp của đề tài
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về loại hình hát ru dân gian của đồng
bào các dân tộc thiểu số Tày, Thái, Mường ở miền núi phía Bắc góp phần làm nổi

5


rõ bản sắc văn hóa Việt Nam của các cộng đồng sắc tộc. Giới thiệu tinh hoa văn hóa
Việt Nam qua các bài hát ru tiêu biểu của một số dân tộc thiểu số trong lịch sử văn
hóa Việt Nam.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn của
chúng tôi được triển khai thành 3 chương như sau:
Chương 1: Khái quát về hát ru và hát ru trong đời sống văn hóa dân gian của
đồng bào Tày, Thái, Mường miền núi phía Bắc
Chương 2: Bức tranh hiện thực của hát ru trong sinh hoạt dân gian của đồng
bào Tày, Thái, Mường miền núi phía Bắc
Chương 3: Nghệ thuật hát ru trong đời sống dân gian của đồng bào Tày,
Thái, Mường miền núi phía Bắc

6


NỘI DUNG
Chương 1

KHÁI QUÁT VỀ HÁT RU VÀ HÁT RU TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
DÂN GIAN CỦA ĐỒNG BÀO TÀY, THÁI, MƯỜNG MIỀN NÚI PHÍA BẮC
1. Khái quát về hát ru trong đời sống văn hóa dân gian
1.1. Khái quát về văn hóa dân gian
Khi bàn về vấn đề văn hóa dân gian, nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh nêu ý
kiến: “Văn hóa dân gian là cội nguồn của văn hóa dân tộc hay còn gọi là văn hóa
gốc, văn hóa mẹ… Có con người là có văn hóa, có dân tộc là có văn hóa. Văn hóa
đó trước nhất là văn hóa dân gian, là văn hóa của quần chúng nhân dân. Qua văn
hóa dân gian, nhân dân lao động tự biểu hiện mình, tự phản ánh cuộc sống của
mình” [33:466]. Như vậy văn hóa là một phạm trù ý thức xã hội luôn gắn với sự tồn
tại của con người, con người có ý thức về nền văn hóa đó, đồng thời văn hóa dân
gian là cội nguồn của mỗi dân tộc. Văn hóa dân gian rất đa dạng và phong phú bao
gồm: văn học dân gian (cổ tích, thần thoại, ca dao, tục ngữ), nghệ thuật dân gian
(kiến trúc, hội họa, âm nhạc dân gian), tri thức dân gian (tri thức về tự nhiên, con
người, y học dân gian, về ứng xử xã hội, lao động sản xuất), tín ngưỡng, phong tục
và lễ hội dân gian. Tất cả tạo nên đời sống dân gian muôn màu muôn vẻ bao gồm
những giá trị văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần trong sinh hoạt cộng đồng của
nhân dân lao động.
Trong các giá trị tiêu biểu nhất của văn hóa dân gian phải kể đến văn học dân
gian. Từ bao đời nay, các dân tộc trên thế giới đều sản sinh ra những sáng tác dựa
trên ngôn ngữ của quần chúng nhân dân và lưu truyền từ đời này sang đời khác,
vùng này sang vùng khác dưới hình thức truyền miệng. Các nhà nghiên cứu đều cho
những lời ca tiếng hát của nhân dân lao động làm ra là nghệ thuật dân gian. Khi bàn
về văn học dân gian, người ta thường đề cập đến các khía cạnh như chất liệu ngôn
từ, hình thức diễn xướng, hình tượng nghệ thuật, đối tượng thưởng thức,v.v... Do
vậy, văn học dân gian chính là các tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng, là sản
phẩm của quá trình sáng tác tập thể nhằm mục đích phục vụ các nhu cầu sinh hoạt
khác nhau của đời sống cộng đồng trong đó có hát ru.

7



1.2. Khái niệm về hát ru
Trong các sáng tác dân gian, ca dao dân ca là một hình thức nghệ thuật độc
đáo, phản ánh chân thực thế giới tâm hồn phức điệu của con người. Bằng chất trữ
tình, ca dao dân ca đã đi vào lòng người như một nhu cầu thường nhật. Ca dao dân
ca vừa được tạo ra trong quá trình con người quan hệ với môi trường tự nhiên và
môi trường xã hội lại vừa là chất xúc tác thúc đẩy mọi hoạt động sống của con
người. Thực tiễn cho hay, ca dao dân ca là nơi lưu giữ phong tục tập quán, thói
quen sinh hoạt hằng ngày, tình cảm của cộng đồng. Tác giả Phan Đăng Nhật đã
khẳng định trong cuốn Văn học dân gian các dân tộc thiểu số (Trước Cách mạng
tháng Tám năm 1945) rằng: “Nếu kể đến một đời người thì từ lúc nằm nôi, nằm địu
đã được nuôi bằng lời ru, lớn lên chơi đùa trong tiếng hát mười tám đôi mươi làm
khèn làm sáo, tỏ tình trong tiếng ca, về già bên mâm rượu hát lời dạy con cháu cho
đến lúc chết, hồn bay theo tiếng nhạc tiễn đưa… thì trong bất kì bước đi của cuộc
đời, các dân tộc cũng tắm mình trong thơ ca” [50:107]. Như vậy, đối tượng phản
ánh của ca dao là toàn bộ cuộc đời của một con người bắt đầu từ lời ru đưa nôi khi
mới lọt lòng đến những bài ca nghi lễ tiễn đưa người đó về thế giới bên kia. Vì thế,
các công trình nghiên cứu đều đề cập đến hát ru như một bộ phận quan trọng của ca
dao, dân ca. Sinh dưỡng trẻ thơ là nhu cầu tự nhiên của con người, do đó hát ru
thường xuất hiện trong sinh hoạt ở mọi cộng đồng dân tộc.
Tác giả Nguyễn Thị Bích Hà cho rằng: “Trong ca dao, dân ca có một nhóm
bài ca của người mẹ dành cho con, đó là hát ru” [19:240]. Tác giả Võ Quang Nhơn
cũng khái quát: “Hát ru là một bộ phận dân ca sinh hoạt liên quan đến thế giới của
trẻ con” [52:271]. Đồng quan điểm với các nhà nghiên cứu về văn học dân gian như
Trần Hoàng và Phạm Thu Yến, tác giả Vũ Anh Tuấn cũng đưa ra nhận định về hát
ru như sau: “Hát ru là một biệt loại của ca dao, gắn bó chặt chẽ với đời sống mỗi
con người, mỗi gia đình, mỗi dân tộc” [77:199]. Nhận định trên cho thấy sự gắn kết
loại hình nghệ thuật hồn nhiên đó với đời người, quan niệm trên còn được phản ánh
trong nội dung giáo trình Văn học dân gian dùng để giảng dạy cho sinh viên ngành

Ngữ văn và Việt Nam học.

8


Trên cơ sở nhận thức quan điểm nghiên cứu của những người đi trước, chúng
tôi xin đưa ra ý kiến về hát ru như sau: Hát ru là một loại hình nghệ thuật dân gian đặc
sắc, thuộc bộ phận dân ca sinh hoạt liên quan đến thế giới của trẻ thơ, là những lời hát
dân ca dùng để ru trẻ nhỏ và truyền cho trẻ những cung bậc tình cảm từ người lớn.
Sự tồn tại của hát ru là một thực tế của lịch sử văn hóa, nhưng mỗi cộng
đồng dân tộc như Tày, Thái, Mường, Dao có tên gọi riêng mang màu sắc dân tộc.
Trong cuốn Văn hóa các dân tộc thiểu số - Những giá trị đặc sắc, tác giả Phan
Đăng Nhật đã sưu tầm được tên gọi của đồng bào về hát ru như sau: “Dân ca hát ru
được đồng bào Tày Nùng gọi là vén hoặc vén đếch, đồng bào Mường gọi là ru,
đồng bào Dao gọi là háo ton hay lồ xây” [51:143]. Trong quá trình điền dã tại một
số địa phương miền núi phía Bắc, chúng tôi đã sưu tầm được tên gọi của hát ru của
một số dân tộc, thường được đồng bào sử dụng trong sinh hoạt ru con: người Tày
gọi là “đu noọng nòn”, người Thái gọi là “ú noọng” hoặc “ứ lúc nòn”, người
Mường gọi là “ru ún”. Hát ru là một tiểu loại trong dân ca của các tộc người, được
người phụ nữ dùng để ru trẻ nhỏ. Ngoài ra trong gia đình còn có bà ru cháu, chị ru
em bằng tiếng hát ru.
Trong chương trình sách giáo khoa Địa Lí 9 do tác giả Nguyễn Dược làm
tổng chủ biên, các tác giả đã cho biết nội dung khái quát về miền núi phía Bắc như
sau: “Miền núi phía Bắc (hay còn gọi là vùng Trung du và miền núi Bắc bộ) có tổng
diện tích tự nhiên = 100.965 km 2, tổng số dân = 11,5 triệu người, với mật độ dân số
trung bình = 114 người/km2. Xét về mặt hành chính, vùng này bao gồm 15 tỉnh: Hà
Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái
Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Lào Cai.
Vùng có vị trí như sau: phía Bắc tiếp giáp với ba tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và
Vân Nam (Trung Quốc); phía Tây giáp Lào; phía Nam giáp đồng bằng sông Hồng

và Bắc Trung Bộ; phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ” [10:61,62].
Miền núi phía Bắc là khu vực có địa hình chủ yếu là đồi núi cao, có nhiều
thung lũng và được phân chia thành hai vùng Tây Bắc, Đông Bắc với vùng đệm là
Việt Bắc. Đây là nơi cư trú của nhiều tộc người thiểu số thuộc các nhóm ngôn ngữ
khác nhau như: Việt – Mường, Tày – Thái, Mông – Dao, Môn Khơ me, Tạng Miến
và ngôn ngữ Hán.

9


2. Cơ sở xã hội của sự hình thành hát ru
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Các dân tộc anh em cư trú trên mảnh
đất này đã tạo nên nền văn hóa cộng đồng đa sắc tộc. Quá trình lịch sử dựng nước
và giữ nước của dân tộc, cộng đồng các dân tộc anh em đã chung sức đồng lòng
đánh đuổi ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập. Khối đại đoàn kết ấy được hình thành và
nuôi dưỡng nhờ mối quan hệ cội nguồn, sự giao lưu tiếp xúc giữa các giá trị văn
hóa khác nhau ở mỗi tộc người. Nền văn hóa Việt Nam là sự tổng hòa các giá trị
văn hóa của 54 tộc người vừa có tính thống nhất, vừa có tính đa dạng.
Cơ sở xã hội của hát ru là tổng thể các nhân tố thiên nhiên, xã hội làm nền
tảng cho sự hình thành và phát triển của hát ru. Đặc biệt là khu vực trung du miền
núi, hát ru của đồng bào Tày, Thái, Mường có những nét tương đồng và khác biệt,
nhưng đều hình thành từ lâu đời và bắt nguồn từ nhu cầu sinh hoạt của mỗi cộng
đồng. Từ góc nhìn lịch sử văn hóa, chúng ta có thể tìm thấy những cơ sở xã hội
chính sau đây:
2.1. Cơ sở lao động sản xuất
Lao động là phương thức tồn tại của loài người. Nhờ lao động, con người đã
tạo ra nhiều sản phẩm vật chất và tinh thần, hình thành các quan hệ và tổ chức xã
hội. Đặc trưng của môi trường sống chi phối, ảnh hưởng đến tập quán sinh sống của
từng tộc người.
Ca dao dân ca là sản phẩm được tạo ra trong quá trình con người quan hệ với

môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội. Là một bộ phận của ca dao dân ca,
các bài hát ru cũng phản ánh chân thực cuộc sống của đồng bào Tày, Thái, Mường
bằng chất liệu ngôn từ và âm điệu đặc trưng của ngôn ngữ từng dân tộc. Tày, Thái,
Mường, sau dân tộc Kinh là ba tộc người thiểu số có số dân đông hơn các dân tộc
anh em khác. Địa bàn cư trú chủ yếu của ba tộc người này là các thung lũng và đồi
núi thấp trong khu vực miền núi phía Bắc, khác với địa bản cư trú của người Mông,
người Dao, người Lô Lô... ở vùng núi cao. Từ lâu đời, người Tày, người Thái và
người Mường đã chú trọng đến sản xuất nông nghiệp trồng cấy lúa nước kết hợp
với làm nương rẫy, chăn nuôi gia súc và phát triển các nghề thủ công như đan lát,
thêu dệt, đánh cá. Chính môi trường thiên nhiên và lao động sản xuất đó đã gợi lên

10


những hình ảnh gần gũi con người là cơ sở cho nội dung phản ánh hiện thực trong
những bài hát ru.
Một yếu tố quan trọng góp phần hình thành các làn điệu hát ru là tính chất đa
dạng của hoạt động lao động sản xuất. Lắng tai nghe những lời hát cất lên bên cánh
võng hay bên vành nôi ta mới cảm nhận được nỗi nhọc nhằn của người lao động.
Cuộc sống phụ thuộc vào thiên nhiên nên con người phải trải qua nhiều gian truân
như thiên tai bão lụt, hạn hán trong cuộc kiếm tìm nguồn thức ăn và duy trì sự sống.
Qua lời ru của người mẹ người Mường ta thấy hiện lên hình ảnh của môi
trường lao động sản xuất biểu hiện cụ thể và sinh động:
Em ngủ lại
Mẹ đi cỏ lúa ngoài rừng [62:308]
Hay: Ngủ đi em à
Mẹ ta đi cấy cạnh đồi bái [62:309]
Ngàn đời nay, cộng đồng Mường gắn bó với nghề nông nghiệp lúa nước.
Đặc trưng của vùng miền núi phía Bắc là những cánh đồng ruộng bậc thang trong
thung lũng xen kẽ với đồi và rừng. Địa hình dốc nghiêng gây khó khăn cho sản xuất

nông nghiệp, đặc biệt là việc chủ động nước tưới. Khắc phục tình trạng này, người
Mường đã tạo ra những bánh xe nước để chuyển nước lên những khu ruộng cao. Từ
lời ru yêu thương, hiện lên vẻ đẹp của sự hi sinh và đức tính cần cù chịu khó của
người mẹ.
Ngoài ruộng nước, đồng bào còn canh tác trên nương rẫy, chăn nuôi gia súc
và phát triển các nghề thủ công. Sinh dưỡng nuôi con gắn liền với nhịp sống lao
động ở mọi nơi với mọi người:
Bà nhàn rỗi nhuộm vang
Mạng (mẹ) nhàn rỗi dệt vải
Thím đi hái lá dâu
Bố ra sông sâu đánh cá
Vạ (cô) nhàn rỗi chăn trâu [62:407]
Lúc thời vụ nông nhàn, người phụ nữ Mường thường miệt mài bên khung
cửi để dệt vải. Sản phẩm của nghề dệt rất phong phú: vải, váy – quần áo, khăn,

11


chăn, màn, địu…với nhiều họa tiết hoa văn được bàn tay khéo léo của người phụ nữ
tạo nên. Các sản phẩm này dùng trang trí cho cuộc sống, đồng thời cũng là tiêu
chuẩn đánh giá tài năng, đức tính của người phụ nữ cũng như sự sung túc của từng
gia đình. Ngược lại, người nam giới với ưu thế là phái mạnh lại ưa vào rừng săn bắn
hoặc ra sông suối đánh cá. Những công việc không những phải có sức khỏe tốt mà
cần cả sự nhanh trí, dũng cảm. Thành quả của cuộc săn bắt chứng tỏ bản lĩnh, sức
mạnh và vai trò của người đàn ông trong gia đình.
Cuộc sống lao động sản xuất của đồng bào Tày cũng có nét tương đồng như
vậy, nhưng trong từng bài ca hiện lên thật gần gũi và có những nét riêng trong nhịp
sinh hoạt gia đình:
Một con đi giặt tã
Một con đi nhuộm chỉ

Một con rửa bát đũa sớm trưa
Một con đi nhóm bếp đợi mẹ
Một con loanh quanh chẳng biết làm gì
Một con đuổi trâu bò về trại
Một con ghé lại nằm cạnh bé [84:382]
Tính tương thân tương ái của xã hội truyền thống của người Tày được người
hát vận dụng linh hoạt tạo nên mạch hát ru miên man, đưa trẻ thơ vào giấc ngủ êm
ái. Đa phần người hát ru là các bà, các mẹ và các em gái. Lời ru đơn giản nhưng lại
rất tinh tế phản ánh đời sống thường nhật của cộng đồng, phản ánh nét phong tục
sinh hoạt cộng đồng của đồng bào Tày. Một gia đình người Tày đông con nhiều
cháu nhưng lại có sự phân công công việc rất cụ thể. Nếp sống xa xưa của người
Tày nói riêng và các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc nói chung đều gắn liền
với nương rẫy, trồng lúa và hoa mầu. Nghề thủ công truyền thống là dệt vải, nhuộm
chàm, ngoài ra còn thuần dưỡng và chăn nuôi gia súc. Đồng bào cũng đan nôi bằng
tre, mây, nứa để đặt trẻ nằm ngủ. Bài hát ru mang những hình ảnh xa xưa của cộng
đồng người Tày vẫn được lưu truyền đến ngày nay. Bằng những giai điệu dịu êm
ngọt ngào, lời ca giản dị của các bài hát ru con chuyển tải được những hình ảnh gần
gũi, thân quen phản ánh được hiện thực xã hội, ngay từ thuở trẻ nằm nôi và đã gieo
vào lòng trẻ tình yêu lao động, yêu cha mẹ, yêu gia đình với quê hương.

12


Về địa bàn cư trú cũng như các phương thức sản xuất, phong tục tập quán,
đồng bào Thái rất gần gũi với nếp sống của đồng bào Tày cả về ngôn ngữ và phong
tục. Các từ ngữ trong sinh hoạt có nhiều điểm gần gũi như nhau. Do đó lời ru và
điệu ru của đồng bào Tày và đồng bào Thái có nhiều nét đồng điệu. Cũng như đồng
bào Tày, trong lời ru của người Thái không phản ánh về các thiết chế xã hội, cũng
không thiên về miêu tả thuần túy đời sống cộng đồng, những bài hát ru của người
Thái nhấn mạnh đến công cuộc mưu sinh của cha mẹ. Cư trú tập trung ở vùng Tây

Bắc Việt Nam, người Thái cũng khai phá được những cánh đồng màu mỡ để canh
tác, đồng bào có câu truyền khẩu chỉ địa danh canh tác: “Nhất Thanh, nhì Lò, tam
Than, tứ Tấc”. Kinh nghiệm trồng lúa nước được đồng bào đúc kết trong thành ngữ
“Mương, phai, lái, lín” – hệ thống thủy lợi dẫn nước tưới tiêu cho các cánh đồng
thung lũng. Nhưng đặc biệt hơn với cách chăn nuôi trồng trọt của đồng bào Tày và
Mường, đồng bào Thái còn nuôi cá trong ruộng lúa để diệt các loài côn trùng. Vì
thế hình ảnh mẹ đi ra đồng bắt cá được nhắc đến trong các bài hát ru:
Mẹ đi ruộng lấy cá về con ăn [84:361]
Hay: Mẹ đi xúc cá thật to
Cá to để dành cho em ăn trưa
Để dành út ăn nhiều [84:361]
Đặc trưng của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước đã ảnh hưởng rất nhiều đến
quan niệm sống của dân tộc Việt và sự hình thành các làn điệu hát ru. Cư dân nông
nghiệp rất coi trọng khâu giống cây trồng. Thế giới sinh vật cũng như con người,
muốn tồn tại được thì phải có sự sinh sôi nảy nở nối tiếp nhau. Quan niệm giống nòi
dần trở thành quan niệm sống của cộng đồng xã hội. Coi trọng giống nòi thể hiện ở
việc sinh con nối dõi tông đường và quan trọng hơn là việc chăm sóc con phát triển
toàn diện cả về thể chất lẫn tâm hồn. Ngay từ khi lọt lòng, người mẹ đã truyền cho
con sức mạnh của tình mẫu tử, rót vào tâm hồn con những ấn tượng đẹp về cuộc
sống, nuôi dưỡng tình yêu gia đình, cộng đồng, yêu truyền thống tốt đẹp của quê
hương. Hát ru là bài ca đầu đời, là tiếng lòng thiết tha của người mẹ mong cho con
khôn lớn từng ngày.

13


2.2. Cơ sở ngôn ngữ
Cơ sở quan trọng của việc nghiên cứu văn hóa tộc người nói chung và hát ru
nói riêng là đặc trưng ngôn ngữ. Vì ngôn ngữ chính là phương tiện biểu đạt tâm hồn
tình cảm, là linh hồn của dân tộc nên con người đã sử dụng rất nhiều cách thức để

lưu giữ lại thứ tài sản linh thiêng đó. Ca hát là một con đường phổ biến để nuôi
dưỡng ngôn ngữ cộng đồng. Các tộc người ở Việt Nam có nguồn gốc và truyền
thống văn hóa khác nhau, ngôn ngữ sử dụng cũng có sự đa dạng. Các tài liệu dân
tộc học đều chỉ rõ đặc điểm và mối quan hệ của các nhóm ngôn ngữ chính ở Việt
Nam. Mỗi nhóm ngôn ngữ có mối tương đồng và khác biệt. Điều này thể hiện rõ
trong lời ru của đồng bào Tày và Thái. Chẳng hạn như các cụm từ “noọng nòn” (em
ngủ), “noọng kin” (em ăn) đều có trong lời ru của hai dân tộc đó. Tuy nhiên trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chỉ xin đề cập đến các nhóm ngôn ngữ liên
quan đến ba tộc người Tày, Thái, Mường.
Người Mường là một trong bốn cư dân thuộc nhóm ngôn ngữ Việt – Mường.
Đây là nhóm ngôn ngữ có dân số đông nhất Việt Nam. Cư dân tiền Việt Mường là
nguồn gốc của nhóm này. Quá trình lịch sử đã phân hóa bộ phận dân cư Việt –
Mường thành các tộc người Kinh, Mường, Thổ, Chứt; cư trú thành các mường, bản.
Họ là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước ở các dải đồng bằng trải dài từ Bắc vào
Nam, một bộ phận nhỏ làm lúa nương ở vùng đồi thấp. Văn hóa mà họ tạo ra đi liền
với địa hình và môi trường sống nên được gọi là văn hóa lúa nước hay văn hóa
đồng bằng (Văn hóa vùng thấp).
Nhóm ngôn ngữ Tày – Thái: là nhóm cư dân văn hóa thung lũng, cư trú chủ
yếu ở miền núi phía Bắc Việt Nam. Thiết chế xã hội là bản, mường nhưng mang
đặc điểm của mô hình nhà nước. Tám tộc người Tày, Thái, Nùng, Giáy, Lào, Lự,
Sán Chay, Bố Y có mối quan hệ ngôn ngữ và văn hóa rất gần gũi. Các dân tộc thuộc
nhóm Tày – Thái cư trú chủ yếu ở vùng thung lũng, canh tác ruộng nước. Văn hóa
của họ là văn hóa thung lũng, khác văn hóa đồng bằng của nhóm người Việt –
Mường và khác văn hóa rẻo cao của nhóm người Mông – Dao, Môn – Khơme.
Tiến trình lịch sử với các cuộc chiến tranh, thiên tai, bệnh dịch đã làm lan tỏa
làn sóng di cư của các tộc người tạo nên một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng.

14



Quá trình đó có sự tiếp xúc, tiếp biến các giá trị văn hóa của các tộc người. Ngôn
ngữ chính là điều kiện tiên quyết để hình thành xã hội loài người, để trao truyền
kinh nghiệm sống và để giao lưu văn hóa. Nhờ ngôn ngữ, con người ở các dòng tộc
khác nhau có thể học hỏi, trò chuyện lẫn nhau. Vì thế mà tất cả các dân tộc trên thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng đều sản sinh ra những làn điệu hát ru của
riêng mình. Yêu con không chỉ thể hiện ở việc mang nặng đẻ đau, bú mớm, vỗ về
hàng ngày mà còn biểu hiện nhẹ nhàng qua lời ru của mẹ, của bà, của chị. Tiếng hát
ấy giản đơn nhưng lại có sức sống bền lâu mang đến cho người nghe những âm điệu
ngọt ngào, tình cảm thiết tha sâu nặng. Dân gian cho rằng rốn là “dấu vết” của thế
hệ trước để lại. Điều đó là một thực tế, vì khi còn trong bụng mẹ đứa trẻ cũng nhờ
nhau thai của mẹ để lớn lên thành hình hài. Như vậy ngay từ trong bụng mẹ, bé còn
cảm nhận được nhịp thở, những cảm xúc tình cảm của mẹ. Như vậy, hát ru cũng có
thể coi là dấu hiệu âm thanh tiếng nói đầu đời bởi vì trẻ không thể tự ru mình khi
mới sinh ra, chỉ có người lớn trong gia đình mới có khả năng hát cho trẻ nghe
những giai điệu có êm ái thấm đẫm tình người đưa trẻ vào giấc ngủ. Và những trạng
thái cảm xúc, tình cảm được bồi đắp thêm theo nhịp điệu hát ru.
2.3. Đặc điểm xã hội của tộc người
Miền núi phía Bắc là địa bàn cư trú đan xen của nhiều nhiều dân tộc thiểu số.
Mỗi tộc người đều có tiếng nói riêng, cốt cách riêng phản ánh qua những giá trị vật
chất và tinh thần của mỗi cộng đồng. Đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa tinh thần, họ
sáng tác và lưu truyền những tác phẩm văn học dân gian của riêng mình. Nó là sản
phẩm của cuộc sống cộng đồng gắn liền với quá trình lao động, sản xuất, các hình
thức sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, phong tục tập quán,v.v... Trong kho tàng ấy các
tác phẩm văn học đậm đà bản sắc riêng nhưng cũng xuất hiện nhiều yếu tố chung:
mô-tip nội dung, thể loại, cách gieo vần, luyến láy do quá trình tương tác, giao lưu
văn hóa giữa các tộc người trong cùng khu vực. Về âm điệu lời ru thường theo nhịp
2/2 với lời thơ 4 chữ (hoặc 5 chữ) trong các bài hát ru của hai cộng đồng sắc tộc
Tày Thái đã nói lên điều đó.
Hát ru là một thể loại dân ca mà làng quê nào, dân tộc nào cũng có. Vì thế
hát ru không chỉ có ở tộc người Kinh mà có ở tất cả các dân tộc thiểu số. Những


15


sinh hoạt bình thường hàng ngày của con người là mạch nguồn để sản sinh ra các
bài hát ru. Trong nền văn hóa dân gian, hát ru là làn điệu dân ca có từ lâu đời gắn
liền với quá trình sinh dưỡng trẻ thơ trở thành nếp sống của cộng đồng.
Một lời hát ru cất lên bên nôi tưởng chừng đơn giản nhưng khi tách từng câu
chữ ta mới thấy được nhiều lớp nghĩa được chi phối bởi nhiều hiện tượng phong
phú của đời sống xã hội phản ánh trong bài ca.
Trong lời hát ru của người phụ nữ Mường có đoạn:
Lạc tới cửa nhà lang
Đực bò vàng đánh trống
Đực bò mộng đánh chiêng [84:264]
Ba câu hát chứa đựng ba hình ảnh đặc trưng của xã hội cổ truyền mà tộc
người Mường đã sinh sống: nhà lang (đại diện cho sự phân hóa giai cấp tầng lớp
trong xã hội), con bò (phản ánh đặc điểm kinh tế), chiêng và trống (nói lên đời sống
sinh hoạt tinh thần). Theo tác giả Trần Từ trong công trình Người Mường ở Hòa
Bình: “Lang là lãnh chúa ở các vùng có người Mường cư trú (Mường Bi, Mường
Vang, Mường Thàng, Mường Động), là người có quyền hành tối thượng” [80:6].
Tầng lớp lang tức quan lang tồn tại theo hình thức cha truyền con nối trong xã hội
xưa, quyền sở hữu tư liệu sản xuất và cai quản con dân Mường nên nhà lang muôn
đời giàu có. Sự giàu có của nhà lang được đánh giá bằng số lượng chiêng đồng,
trống đồng ở trong nhà. Các lãnh chúa phong kiến thường dùng chiêng đồng, trống
đồng để tạo uy quyền, phô trương sự giàu có và quy định là vật cống nạp. Cửa nhà
lang ám chỉ nơi quyền quý cao sang theo quan niệm xưa của đồng bào. Tuy nhiên,
chiêng trống còn thể hiện sinh hoạt cộng đồng của người Mường. Trong vùng, nhà
lang là nơi diễn ra nhiều sinh hoạt lễ tết, hội hè, đình đám. Và tiếng chiêng tiếng
trống là phần cốt lõi làm nên tính trang trọng, thiêng liêng của nghi lễ, nghi thức tín
ngưỡng đồng thời tạo nên không khí rộn ràng trong các sinh hoạt cộng đồng của

người Mường. Hình ảnh con bò là minh chứng cho việc thuần dưỡng gia súc để lấy
sức kéo của người Mường xưa (chi tiết hình bò cũng được khắc họa nhiều trên thân
trống đồng Đông Sơn). Trong thơ ca dân gian Tày ở những bài hát ru hình ảnh con
trâu, con ngựa được nhắc đến nhiều hơn; với người Mường ngoài con trâu, con bò
cũng là con vật thân thuộc.

16


Khác với nội dung hiện thực trong các bài hát ru của đồng bào Mường, dấu
ấn của thiết chế xã hội không biểu hiện nhiều trong lời hát ru của người Thái. Tuy
nhiên, khi khảo sát nghiên cứu, chúng tôi cũng muốn viện dẫn một ví dụ về hình
ảnh xã hội của người Thái qua câu hát ru: “Dậy làm tạo, làm quan” [11:245]. Theo
nghiên cứu của tác giả Trần Từ: “Chế độ Nhà Lang của người Mường lại rất gần
gũi với những nét điển hình của chế độ các tù trưởng Thái ở khu vực Tây Bắc gọi là
chế độ các Phìa và chế độ các Quằng Tày thuở trước ở khu vực Bắc, trên đất Bắc
Bộ Việt Nam” [80:4,5]. Trước khi chế độ này tan rã, cư dân Thái đã sống trong xã
hội phân chia giai cấp thống trị và bị trị. Theo nghiên cứu của tác giả Lê Sĩ Giáo
trong cuốn Kỷ yếu Văn hóa bản làng của các dân tộc Thái HMông ở một số tỉnh
miền núi Tây Bắc và việc phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong điều kiện hiện
nay thì giai cấp thống trị trong xã hội Thái cũng phân chia thành nhiều đẳng cấp
khác nhau từ cao xuống thấp như sau: “Chẩu Mường – người đứng đầu một mường
lớn nhất ở vị trí trung tâm là Châu Mường, Phìa – người cai quản các đơn vị tụ cư
nhỏ hơn là Mường Phìa, người đứng đầu bản được gọi Tạo khi họ xuất thân từ dòng
dõi quý tộc hoặc được gọi Quan đối với những người thuộc dòng họ dân”
[61:21,22].
Ngoài âm điệu ngọt ngào để ru trẻ, trong ca từ của các bài hát ru Thái hay đề
cập đến các món ăn truyền thống và ý nghĩa sâu xa hơn là phản ánh niềm tin tín
ngưỡng của đồng bào:
Đồ xôi chín đi nương

Canh gà chín đi ruộng
Canh cá chín để nhà bón cho em [50:138]
Từ hạt lúa, đồng bào đã sáng tạo ra nhiều món ăn ngon, trong đó có món
cơm lam nổi tiếng. Mỗi khi đi làm nương, đồng bào thường mang theo gạo, thịt khô
và muối trắng để ăn. Đồng bào đã chọn những đoạn ống nứa hoặc tre bánh tẻ, lấy
nước suối để nấu cơm lam. Sản phẩm tạo ra được gọi là cơm lam (trong tiếng Thái,
“lam” có nghĩa là nướng). Mùi vị của cơm lam rất đặc biệt, trong miếng cơm có vị
ngọt, thơm dẻo của hạt gạo hòa quện vào mùi thơm của ống nứa non và nước suối.
Không chỉ món ăn cổ truyền, là đặc sản của vùng Tây Bắc, cơm lam còn là món ăn

17


linh thiêng gắn liền với văn hóa tộc người và những câu chuyện dân gian. Người
Thái tin rằng, ngoài thế giới nhân gian của người sống, vẫn có một thế giới khác tồn
tại là Mường Trời (Mường Then) – nơi trú ngụ của các vị thần linh tổ tiên và các
linh hồn. Khi xuống nhân gian đầu thai, các linh hồn thường ăn gạo nướng chín
trong các ống nứa. Vì thế mà ngay sau khi sinh, người mẹ đã ăn cơm lam để có
nhiều sữa, đảm bảo sức khỏe và báo hiệu cho thần linh về sự ra đời của đứa trẻ. Do
vậy, trong những bài hát ru có nói đến cơm lam, sinh hoạt ẩm thực cũng nhuốm
màu văn hóa tín ngưỡng và phong tục của dân tộc.
Đặc trưng của văn học dân gian là tính truyền miệng và nhiều dị bản. Từ âm
điệu của bài hát xưa, người hát có thể thêm, bớt ca từ cho phù hợp với hoàn cảnh cụ
thể. Trong công trình Văn hóa dân gian làng bản Nầng do tác giả Hoàng Tuấn Cư
nghiên cứu sưu tầm, xã hội Tày cổ truyền được phản ánh sâu sắc qua lời ru trẻ “Ứ
noọng nòn”:
Có chín con cánh vàng
Một con chuyên chơi rông trong bản
Một con sang mường khác kháo chuyện
Một con xuống nhà Hiến làm quan

Một con đi cầu loan làm Then
Một con thì nhảy thác chèo thuyền
Một con chuyên cày bừa nuôi mẹ
Một con thì lười biếng
Một con thì nằm ngửa chờ cháo
Một con thì trốn bố đi chơi hội [7:295,296]
Một xã hội muôn màu muôn vẻ của một cộng đồng dân tộc được phản ánh
trong lời hát ru xưa. Ta thấy có sự phân chia tầng lớp rất rõ rệt, ngoài hai tầng lớp
chính là quan: “Một con xuống nhà Hiến làm quan” và dân: “Một con thì nhảy
thác chèo thuyền”, “Một con chuyên cày bừa nuôi mẹ”, còn có bộ phận chức dịch
giúp việc cho quan: “Một con sang mường khác kháo chuyện”, “Một con đi cầu
loan làm then”. Đoạn lời ca cũng kể về nghề nghiệp đặc trưng của xã hội Tày cổ
truyền: “làm quan”, “làm then”, “chèo thuyền”, “cày bừa”. Tổ chức xã hội cổ

18


truyền của người Tày là mường bản. Đứng đầu cai trị vùng mường là Quằng. Theo
lí giải của tác giả Trần Từ: “Người Tày – tộc nói một phương ngữ Thái ở khu vực
Bắc trên đất Bắc Bộ, cũng từng có một chế độ tù trưởng riêng, trong đó những
người cầm đầu được gọi là Quằng” [80:5]. Dưới Quằng là chức Tàn chủ yếu phụ
trách việc nghi lễ cúng bái cho Quằng. Hai chức quan này đều giao cho những
người thuộc dòng dõi quý tộc theo thế tục cha truyền con nối phổ biến ở châu Đại
Man xứ Tuyên Quang xưa. Cư dân Tày sớm phát triển nền nông nghiệp lúa nước
kết hợp với hoạt động săn bắt hái lượm (đặc biệt là nghề đánh cá). Chân dung của
con người cũng được người hát nhấn mạnh với sắc thái khác nhau trong lời hát: có
tiếng chê bai những người “lười biếng” không chịu làm ăn và ngược lại, có lời ngợi
khen những con người cần mẫn, chăm chỉ: “Một con nhảy thác chèo thuyền”, “Một
con chuyên cày bừa nuôi mẹ”. Đức tính yêu lao động, cần cù chịu khó qua lời ca
được truyền dạy từ đời này sang đời khác vừa để duy trì sự sống của bản thân và gia

đình, vừa thể hiện sức mạnh của mường bản. Cũng giống như nhiều tộc người thiểu
số anh em, người Tày rất coi trọng nghi lễ vì đó là bản sắc văn hóa, là phương tiện
để con người thông linh với các vị thần, tạ ơn và cầu xin sự ban ơn, chở che phù hộ.
Những sinh hoạt văn hóa đặc sắc như “làm Then”, “chơi hội” được tổ chức hằng
năm đáp ứng nhu cầu tâm linh của của cộng đồng. Lời hát cũng muốn chuyển tải
nội dung sự trường tồn của con người qua hình ảnh các thế hệ: “chuyên chơi rông
trong bản” là hiện thân của những đứa trẻ hồn nhiên, khỏe mạnh cùng với thế hệ
thanh niên: “Một con chuyên cày bừa nuôi mẹ”. Hình ảnh đứa trẻ thơ chờ đón sự
chăm sóc của cha mẹ: “Một con thì nằm ngửa chờ cháo”. Trong bài ca hiện lên
sinh động những con người ở những vị thế và công việc khác nhau trong gia đình và
cộng đồng tạo nên mối giao hòa của cuộc sống.
Căn cứ vào thiên chức về giới ta có thể thấy, hát ru là những bài hát dân ca
do người phụ nữ sáng tác và diễn xướng, mục đích chính là ru trẻ ngủ ngon nhưng
trong quá trình sáng tác và diễn xướng, người hát đã mượn điệu ru để kể về nhịp
sống thường nhật, về cảnh vật không gian vừa để giãi bày nỗi lòng, vừa khuyên nhủ

19


×