K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

3 tháng 12 2019

Sáo trúc

Sáo trúc xuất hiện nhiều trong văn thơ Việt Nam. Từ xưa đến nay đã gắn bó với đời sống tinh thần, văn hóa của người Việt. Vật liệu làm sáo trúc thường là tre hoặc trúc. Đường kính khoảng 1,5cm và chiều dài 30cm.

Sáo trúc

Sáo trúc diễn đạt nhiều cung bậc cảm xúc, âm vực rộng trên hai quãng tám. Âm sắc của nó trong sáng, vui tươi gợi mở khung cảnh đồng quê yên bình của nước ta.

Sáo trúc có thể độc tấu hoặc hòa tấu cùng với dàn nhạc giao hưởng, cổ truyền, thính phòng, nhạc nhẹ.

Đàn tranh

Đàn tranh có hình hộp dài, khung hình thang chiều dài từ 110 – 120cm. Đầu lớn có lỗ và con chắn để mắc dây, rộng 25 – 30cm. Đầu nhỏ gắng 16 khóa lên dây chéo qua mặt đàn rộng 15 – 20cm.

Mặt đàn được làm bằng ván gỗ ngô đồng uốn hình vòm và dày 0,05cm. Ngựa đàn (con Nhạn) nằm ở giữa để gác dây và di chuyển điều chỉnh âm thanh.

Dây đàn có các cỡ khác nhau và được làm bằng kinh loại. Móng gảy được làm bằng nhiều chất liệu như kim loại, đồi mồi, sừng.

Đàn tranh

Tiếng đàn tranh nghe trong trẻo, tươi sáng thể hiện những điệu nhạc vui tươi. Đàn tranh được sử dụng để độc tấu, hòa tấu, đệm cho người hát, ngâm thơ, dàn nhạc tài tử, dàn nhã nhạc, phường bát âm và những dàn nhạc dân tộc tổng hợp.

Đàn bầu

Còn được gọi là Độc huyền cầm. Đây là một trong các loại nhạc cụ dân tộc Việt Nam được gảy bằng que hoặc miếng gảy. Có hai loại đàn bầu là đàn thân tre và đàn hộp gỗ.

Đàn thân tre: Loại đàn được sử dụng trong hát Xẩm. Thân đàn là một đoạn tre hoặc bương dài 120cm, đường kính 12cm. Mặt đàn được lóc đi phần cật trên đoạn tre, bương.

Đàn hộp gỗ: Loại đàn được cải tiến về sau, dùng cho nghệ sĩ chuyên nghiệp. Loại đàn này có nhiều kích thước, hình dáng khác nhau.

Đàn bầu

Dây đàn bầu chạy suốt thân đàn. Xưa dây đàn được làm bằng tơ tằm se thành sợi, sau thay bằng dây sắt.

Đàn bầu được làm bằng một nửa quả bầu nậm. Bầu đàn lồng vào giữa vòi đàn nơi buộc dây đàn. Bầu đàn sẽ giúp âm lượng của đàn tăng thêm.

Âm sắc của loại nhạc cụ dân tộc Việt Nam này sâu lắng, ngọt ngào, quyến rũ, dễ đi vào lòng người.

Ðàn đáy

Được chế tác vào thời Lê khoảng thế kỷ XV-XVIII, là cây đàn dài nhất do người Việt sáng tạo ra. Xưa đàn đáy được gọi là Vô để cầm tức đàn không đáy, cũng có người gọi là Đới cầm.

Đàn đáy được sử dụng trong hát ca trù, hát ả đào cùng với phách và trống đế.

Âm thanh của đàn đáy nỉ non, buồn man mác. Loại đàn này được gắn với 7 cung chia đều nên khi hát xuống thấp hoặc lên cao thì người nghệ sĩ không cần vặn dây lại mà chỉ cần đổi thế bấm nhanh.

Đàn đáy có thể tạo ra các ngón chùn khi bấm tạo thành nét độc đáo của loại đàn này.

Đàn tỳ bà

Là một loại nhạc cụ dây gẩy của Việt Nam. Tuy nhiên, cũng có một số tài liệu ghi chép đàn tỳ bà xuất hiện ở Trung Quốc từ rất sớm được gọi là PiPa, rồi ở Nhật được gọi là BiWa.

Đàn tỳ bà

Đàn tỳ bà được làm bằng gỗ cây ngô đồng. Cần đàn, thùng đàn liền nhau có dáng như hình quả lê bổ đôi. Mặt đàn được làm bằng gỗ xốp, nhẹ và để mộc. Mặt cuối thân đàn để mắc dây gọi là ngựa đàn. Đầu đàn còn được chạm khắc cầu kỳ, có thể là hình chữ thọ hoặc hình con dơi. Đầu đàn được gắn 4 trục gỗ để lên dây.

Đàn tỳ bà dài từ 94 – 100cm. Cần đàn có gắn 4 miếng ngà voi cong vòm lên được gọi là Tứ Thiên Vương. Tám phím chính làm bằng gỗ hoặc tre gắn ở phần mặt đàn cho những cao độ khác nhau.

Xưa dây đàn được làm bằng tơ tằm, nay được làm bằng dây nilon.

Đàn tỳ bà mặc dù có xuất xứ từ những nước khác, nhưng qua thời gian đã được bản địa hóa và trở thành nhạc cụ dân tộc Việt Nam. Nó thể hiện sâu sắc, đậm đà các bản nhạc mang phong cách của dân tộc Việt Nam.

Đàn nguyệt

Đàn nguyệt có tên gọi khác là đàn Kìm. Đây là loại nhạc cụ dân tộc được sử dụng rộng rãi trong dòng nhạc cung đình, nhạc dân gian.

Đàn nguyệt bắt đầu xuất hiện trong mỹ thuật Việt Nam từ thế kỷ XI, cho đến nay vẫn là một nhạc cụ âm nhạc quan trọng và được sử dụng chủ yếu dành cho nam giới.

Cần đàn nguyệt khá dài, phím cao nên nghệ sĩ có thể tạo ra được các âm mềm mại, nhấn nhá uyển chuyển.

Âm đàm vang, trong và biểu hiện rất phong phú, có lúc nỉ non sâu lắng, có lúc lại sôi nổi, tươi vui. Vì thế, đàn nguyệt được sử dụng trong hòa tấu nhạc lễ trang nghiêm, lễ tang hoặc hát văn, hòa tấu thính phòng. Hình thức diễn tấu cũng phong phú: Độc tấu, hòa tấu hoặc đệm cho hát.

Đàn nhị (đờn cò)

Có mặt trong âm nhạc truyền thống của nước ta từ rất lâu đời, đàn nhị đóng vai trò quan trọng không thể thiếu trong những dàn nhạc dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay.

đàn nhị

Đàn nhị được người dân Nam bộ gọi là đàn cò vì hình dáng trông giống như con cò. Trục dây đầu quặp xuống như mỏ cò. Thân đơn như con cò. Cần đờn như cổ cò. Tiếng đờn nghe lảnh lót nhưng tiếng cò.

Đờn cò được sử dụng trong các dàn nhạc nhã nhạc, sắc mùa, cải lương, ngũ âm, bát âm, nhạc tài tử, dân ca…

Ngày nay, đàn nhị còn được khai thác dùng trong những ca khúc buồn hoặc nhạc phẩm quê hương.

Đàn tam thập lục

Có 36 dây đàn nên được gọi là tam thập lục. Đây là nhạc khí dây thuộc chi gõ của nhạc cụ dân tộc Việt Nam.

Đàn tam thập lục hình thang cân, mặt đàn được làm bằng gỗ xốp, nhẹ, để mộc, nhìn hơi phồng lên ở giữa. Cần đàn và thành đàn được làm bằng gỗ cứng, trên mặt đàn và đặt so le 2 hàng ngựa. Mỗi hàng có 28 ngựa. Cần đàn bên trái có 36 móc để mắc dây và bên phải có 36 trục lên dây.

Dây đàn được làm bằng kim khí. Que đàn làm bằng 2 thanh tre mỏng và dẻo. Đầu que được quấn dạ để tiếng đàn nghe êm hơn.

Âm thanh của đàn tam thập lung thánh thót, trong sáng và rộn rã.

Đàn tam thập lục được sử dụng trong những dàn nhạc cải lương, chèo. Được dùng để độc tấu, đệm cho hát hoặc tham gia vào dàn nhạc dân tộc tổng hợp.

Đàn tam

Đàn tam có 3 dây, mặt bầu vàng được bịt da trăn. Trước đây, đàn tam được sử dụng trong dàn nhạc bát âm. Ngày nay, đàn tam có mặt ở hầu hết các dàn nhạc với kích cỡ khác nhau.

Âm sắc của loại đàn này không như những loại đàn khảy dây khác, có màu âm vang, sáng sủa, ấm áp và rộn rã. Nhưng khi ở quãng thấp thì âm đàn tam lại hơi đục. Vì thế thường được dùng để thể hiện những giai điệu khỏe khoắn, trầm hùng.

Đàn sến

Đàn sến là một trong những loại nhạc cụ dân tộc Việt Nam, là nhạc khí dây gảy loại có cần đàn. Loại đàn này được du nhập vào nước ta và trở thành nhạc cụ dân tộc Việt, được sử dụng phổ biến nhất là ở miền Nam.

đàn sến

Âm sắc đàn sến rất trong trẻo, tưới sáng, gần giống đàn nguyệt nhưng độ ngân vang không bằng. Đàn sến được dùng trong những dàn nhạc cải lương, sân khấu tuồng.

Đàn đá

Đàn đá thuộc bộ gõ, đâu là loại nhạc cụ cổ nhất của dân tộc Việt Nam. Mỗi thanh đá có hình dáng, kích thước khác nhau và được chế tác bằng phương pháp gõ thô sơ.

đàn đá

Đá nhỏ, mỏng sẽ cho âm cao. Ngược lại đá to, dày sẽ cho âm trầm. Vật liệu được sử dụng làm đàn đá là các loại đá ở vùng Đông Nam Bộ và Nam Trung Bộ.

Tiếng đàn âm vang nghe như lời kể, niềm an ủi những vui buồn trong cuộc sống.

Đàn gáo

Còn được gọi là đàn hồ, là loại nhạc khí cung vĩ phát triển từ đàn nhị. Đàn gáo to, dài hơn đàn nhị nhưng lại khá giống đàn hồ cầm của Trung Quốc về các tính năng.

GS Tô Vũ cho biết: “Gáo” và “Cò” là hai sáng tạo ngôn ngữ có tính cách dân gian ở Nam Bộ, chỉ đàn Nhị và Hồ ở miền Bắc và Trung. Đàn gáo ở miền Nam thường được làm bằng nửa gáo dừa to, bịt mặt gỗ để làm bầu đàn nên được gọi là đàn gáo.

đàn gáo

Đàn gáo có âm trầm hơn đàn nhị nhưng lại đầy đặn, rộng rãi và chắc chắn hơn. Âm sắc của đàn gáo đẹp, ấm nhưng hơi trầm đem lại cảm xúc sâu lắng.

Đàn gáo thường được sử dụng trong dàn nhã nhạc, sân khấu chèo, tuồng, phường bát âm. Đây cũng là nhạc cụ đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong hát Xẩm, đệm cho giọng trung, trầm.

Điểm khác biệt nhất so với đàn nhị là không xuất hiện trong dàn nhạc cung đùng, dàn nhạc tài tử miền nam. Tuy nhiên, đàn gáo và đàn nhị luôn song hành ở những dàn nhạc sân khấu cải lương, cổ truyền và dàn nhạc lễ.

Đàn T’Rưng

Đàn T’Rưng là loại nhạc cụ dân tộc thuộc họ nhạc cụ tự thân vang ở Tây Nguyên. Đây là loại đàn có từ 5 – 7 ống lô ô và được cắt dài ngắn khác nhau. Đối với đàn T’Rưng chuyên nghiệp thì có từ 12 – 16 ống xếp thành hàng trên giá đàn. Các ống này được kết vào 2 sợi dây song song tạo thành câu đàn. Để chơi đàn người ta sẽ dùng 2 dùi bọc vải gõ lên trên các ống.

Đàn T'Rưng

Đàn T’Rưng có âm vực rộng gần 3 quãng 8. Có thể thể đánh được chồng âm hoặc đồng âm nhưng 2 nốt nhạc phải cách nhau một quãng 8. Những ống nhỏ ngắn sẽ phát ra âm cao, còn các ống to, dài sẽ phát ra âm trầm.

Âm sắc của đàn T’Rưng khá độc đáo, tiếng không to, không vang xa nhưng lại khác biệt.

Đàn đoản

Còn được gọi là đàn nhật, đàn mặt trời. Đây là nhạc khí dây gảy loại có dọc, là nhạc cụ truyền thống của dân tộc Việt Nam và một vài dân tộc thiểu số ở miền Bắc. Gần giống với đàn đoản, người Lô Lô có Gièn Xìn, người H’Mông có Thà Chìn. Hộp đàn mỏng hơn và có vẽ hoa, khoét lỗ thoát âm.

Đàn đoản

Đoàn đoản được du nhập vào Việt Nam và trở thành đàn Việt Nam. Đây là loại đàn có 4 dây bằng tơ. Được xếp phím theo hệ thống 7 âm chia đều, khi đánh theo điệu thức 12 bình quân phải nhấn mới đạt được độ cao mong muốn.

Âm thanh của đàn đoản vang, khỏe và giòn, thường phù hợp với những giai điệu vui tươi, dí dỏm, hoạt bát. Đàn đoản thường được sử dụng trong những dàn nhạc bát âm, cải lương, tuồng. Hiện nay, đàn đoản còn được đưa vào dàn nhạc dân tộc tổng hợp hòa tấu.

Khèn

Khèn là nhạc cụ thuộc bộ hơi, cấu trúc phức tạp. Nó bao gồm nhiều ống trúc xếp cạnh nhau. Mỗi đầu cắm được xuyên qua bầu đàn hình bắp chuối để làm hộp cộng hưởng. Khèn là nhạc cụ quen thuộc của đồng bào dân tộc Mường, Thái, H’mông…. Đới với người Mường, khèn được sử dụng để đệm cho hát. Người H’Mông khèn lại được dùng để giao duyên trai gái.

Khèn

Khèn của người Thái có 12 ống, còn của người H’Mông có 6 ống, được bó thành hai hàng và gọi là khèn bè. Âm sắc của khèn bè giòn, mảnh, mỗi ống sẽ phát ra âm sắc nhất định. Bên trong ống có lưỡi gà được làm bằng bạc hoặc đồng dát mỏng.

Khèn bè là nhạc cụ âm nhạc đa thanh, âm vực rộng khoảng 1, 5 quãng 8, âm kéo dài.

Cồng chiêng

Cồng chiêng là nhạc cụ dân tộc Việt Nam, xuất hiện từ thời văn hóa đồng thau Đông Sơn. Đây là loại nhạc cụ thuộc họ tự thân vang, được đúc bằng hợp kim đồng pha chì và thiếc. Cồng là loại có núm, chiêng là loại không có núm. Cồng chiêng càng nhỏ thì tiếng càng cao, càng to thì tiếng sẽ càng trầm.

Cồng chiêng

Trong âm nhạc của hầu hết các dân tộc Việt Nam, cồng chiêng là loại nhạc cụ không thể thiếu. Cồng chiêng nổi tiếng và gắn liền với Tây Nguyên. Ngày nay, âm nhạc cồng chiêng Tây nguyên mang giá trị nghệ thuật được khẳng định trong đời sống văn hóa xã hội.

Trên đây là các loại nhạc cụ dân tộc Việt Nam. Hi vọng rằng, thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay cũng sẽ dành sự quan tâm đến âm nhạc cổ truyền. Nhờ vậy mà nền âm nhạc cổ truyền được bảo tồn và phát huy.

14 tháng 12 2016

- Sơ lược về nhạc sĩ Văn Cao:

So với hai nhạc sĩ Việt Nam nổi tiếng khác là Phạm Duy khoảng 1000 ca khúc và Trịnh Công Sơn với 600 ca khúc, Văn Cao sáng tác không nhiều. Sự nghiệp âm nhạc của Văn Cao được chia làm hai mảng chính: tình ca và hùng ca. Ngoài ca khúc, ông còn viết một số tác phẩm khí nhạc dành cho piano như Sông Tuyến, Biển đêm, Hàng dừa xa... tổ khúc giao hưởng Anh bộ đội cụ Hồ...

- Sơ lược về các nhạc cụ dân tộc

Việt Nam là nước có một kho tàng nhạc cụ cổ truyền hết sức phong phú và đa dạng. Kho tàng ấy được hình thành trong suốt hành trình cuộc sống và chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Có những nhạc cụ được sáng tạo tại chỗ có tính đặc trưng bản địa, có những nhạc cụ được du nhập từ nhiều đường khác nhau nhưng đã được dân tộc hóa, bản địa hóa cho phù hợp với nhạc ngữ, với thẩm mỹ âm nhạc Việt Nam. Tổng cộng có đến vài trǎm chi loài nhạc cụ khác nhau. Dưới đây là những nhạc cụ tiêu biểu nhất của người Việt:

 
  • Biên khánh
  • Đàn bầu
  • Đàn đá
  • Đàn đáy
  • Đàn hồ
  • Đàn nguyệt (đàn kìm)
  • Đàn nhị (đàn cò)
  • Đàn tam
  • Đàn tam thập lục
  • Đàn tứ
  • Kèn loa
  • Phách
  • Sáo ngang
  • Sinh tiền
  • Song loan
  • Tiêu
  • Trống cái
  • Trống cơm
  • Trống đế
  • - Sơ lược về dân ca Việt Nam:
  • Dân ca Việt Nam là một thể loại âm nhạc cổ truyền của Việt Nam, hiện vẫn đang được sáng tác. Âm nhạc này có nhiều làn điệu từ khắp các miền cộng đồng người, thể hiện qua có nhạc hoặc không có của các dân tộc Việt Nam. Do chính người dân lao động tự sáng tác theo tập quán, phong tục. Trong sinh hoạt cộng đồng người quần cư trong vùng đất của họ, thường trong làng xóm hay rộng hơn cả một miền. Các làn điệu dân ca thể hiện phong cách bình dân, sát với cuộc sống lao động mọi người. Các dịp biểu diễn thường thường là lễ hội, hát làng nghề. Thường ngày cũng được hát lên trong lao động để động viên nhau, hay trong tình yêu đôi lứa, trong tình cảm giữa người và người.
    Tuy Nhiên mỗi tỉnh thành của Việt Nam lại có âm giọng và ca từ khác nhau nên dân ca cũng có thể phân theo tỉnh nhưng gọi chung cho dễ gọi vì nó cũng có "tính" chung của miền Bắc, miền Trungmiền Nam.

 

 

14 tháng 12 2016

có vẻ đúng

8 tháng 2 2018

- Các dân tộc sống ở đồng bằng Nam Bộ chủ yếu là Kinh, Khơ- me, Chăm, Hoa.

- Lễ hội Bà Chúa Xứ, hội xuân núi Bà, lễ cúng Trăng,.. là những lễ hội nổi tiếng của người dân ở đồng bằng Nam Bộ.

29 tháng 8 2017

+ Một số dân tộc ở đồng bằng Nam Bộ: Kinh, Khơ-me, Chăm, Hoa,…

+ Lễ hội nổi tiếng: Hội Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc, hội xuân núi Bà, lễ tế thấn cá Ông (cá voi) cái làng chài ven biển,…

Tham khảo

 

1/ Đàn tranh Việt Nam

đàn tranh có dáng hộp, có chiều dài từ 110 – 120cm. Đàn có một phần đầu lớn có lỗ để cài dây (rộng 25-30cm), phần đầu nhỏ có gắn khóa lên dây, số khóa tùy thuộc vào loại đàn và số dây đàn từ 16 đến 21 – 25 dây (rộng 20 – 25cm)

Chất liệu mặt đàn được làm bằng gỗ ván ngô đồng dày khoảng 0.05 – 0.1cm. Được trang bị ngựa đàn (hay còn gọi là con nhạn) nằm ở giữa phần đàn giúp gác dây và di chuyển giúp điều chỉnh âm thanh.

Dây đàn được làm bằng kim loại gồm nhiều kích cỡ khác nhau. Để chơi đàn ta cần dùng móng chất liệu kim loại, đồi mồi hoặc sừng.

Các loại nhạc cụ dân tộc Việt Nam

Tiếng đàn trong và sáng, đàn tranh có thể dược dùng khi chơi độc tấu, hòa tấu hoặc đệm hát, ngâm thơ, dàn nhạc tài tử, hòa nhạc cùng những nhạc cụ dân tộc khác.

3 tháng 12 2021

Tham khảo

1. Đàn tranh Việt Nam 

2. Sáo trúc.

3. Đàn bầu = Hai ngón còn lại thì hơi cong theo ngón trỏ và giữa. Khi gảy dây ta đặt cạnh bàn tay vào điểm phát ra bội âm, hất nhẹ que đàn cùng lúc nhấc bàn tay lên, ta sẽ có được âm bội. Những điểm cạnh bàn tay chạm vào gọi là điểm nút, những điểm trên dây đàn được que gảy vào gọi là điểm gảy.

4. Đàn tỳ bà

5. Đàn nguyệt.

Cách sử dụng bạn lên gg có nha

21 tháng 9 2023

Bài tham khảo:

Đàn đá là nhạc cụ thô sơ nhất được làm bằng những viên đá với kích thước to nhỏ và độ dày mỏng khác nhau. Khi chơi đàn đá người chơi cùng dùng gùi gõ vào những viên đá để tạo ra âm vực khác nhau. Những viên đá to, dày mang âm vực trầm lắng, những viên đá nhỏ, mỏng cho âm thanh vang và xa.

Đàn đá cũng là một trong những nhạc cụ dân tộc thuộc vùng núi Tây Nguyên. Cũng giống như đàn T’rưng, mỗi dân tộc, bộ lạc lại có một cách chơi sáng tạo khác nhau. Như người M’nông họ buộc dây ở hai đầu đá thành chuỗi dài như đàn T’rưng và dùng gùi gõ như cách chơi đàn T’rưng. Nhưng đối với người Mạ họ lại ngồi chơi đàn đá, hai chân duỗi, một viên đá được đặt lên đùi, mỗi người đánh một âm, họ chơi tập thể giống như chơi cồng chiêng. Nhờ sự trường tồn với thời gian mà vẫn giữ được nét độc đáo của bản sắc văn hóa mà đàn đá được UNESCO công nhận là nhạc cụ trong Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên.

19 tháng 2 2019

Nêu câu hỏi

Chưa hiểu cho lắm

!!!!!!!????????

19 tháng 2 2019

nhạc cụ bằng tre hoặc gỗ, lòng rỗng, gõ thành tiếng, hay dùng trong nhạc dân tộc, trong chùa: mõ

16 tháng 2 2022

-   Nhạc cụ hình ống, có nhiều lỗ nhỏ, thổi bằng hơi: sáo

-   Môn nghệ thuật sân khấu trình diễn những động tác leo, nhảy, nhào lộn,…khéo léo của người và thú: xiếc

-   Nhạc cụ bằng tre hoặc gỗ, lòng rỗng, gõ thành tiếng, hay dùng trong dàn nhạc dân tộc, trong chùa:

-  Tạo ra hình ảnh trên giấy, vải, tường, … bằng đường nét, màu sắc: vẽ 

Chúc em học tốt

17 tháng 2 2017

Đáp án C